Tác giả: Lương Minh Hà (Khoa Tài chính - HVNH), Nguyễn Minh Chi và Ngô Trần Vân Khanh (sinh viên K17CLC - HVNH)
Mặc dù là hoạt động khá mới tại thị trường
Việt Nam nhưng M&A (mua bán sáp nhập doanh nghiệp) đã thu hút được một
lượng lớn các nhà nghiên cứu quan tâm. Các tác giả tập trung phác thảo những
nét cơ bản và đặc trưng nhất của các thương vụ M&A trong vòng 20 năm trở
lại đây, xoay quanh số lượng, giá trị và một số khía cạnh
khác như vấn đề đổi mới sáng tạo hay vai trò của các nhà tạo lập chính sách. Tuy
nhiên, khoảng trống nghiên cứu vẫn còn dư địa tương đối lớn và việc đánh giá
hiệu quả của các thương vụ M&A đang nằm trong số cần được khai phá. Tính
đến tháng 3/2018, nhóm nghiên cứu chưa tìm thấy công trình nào thực sự dành
trọng tâm đánh giá hiệu quả các thương vụ M&A tại Việt Nam trên diện rộng.
Thực tế này có thể được lý giải do đặc thù của việc đánh giá một hoạt động kinh
doanh không thể tiến hành trong ngắn hạn. Cụ thể, đối với các thương vụ mua bán
sáp nhập, để mang tính tổng quát và đại diện, thì số lượng thương vụ phải đủ lớn.
Hơn thế nữa, các thương vụ phải hoàn tất với thời gian đủ dài để kết luận trở
nên xác đáng hơn. Trong bài viết, tác giả lựa chọn các thương vụ diễn ra từ 2003
đến 2018, với thời gian đánh giá ít nhất là trên một năm cho mỗi thương vụ. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, nếu tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng trong thương vụ là
dưới 35%, khả năng thành công của thương vụ đó thấp hơn nhiều so với trường hợp
nếu sở hữu một lượng cổ phần đủ để đạt quyền phủ quyết trong doanh nghiệp bên
bán. Thêm vào đó, các thương vụ sáp nhập có khả năng thành công cao hơn các
thương vụ mua lại và nếu bên mua là công ty nội địa thì tỷ lệ thành công cao
hơn bên mua là công ty ngoài Việt Nam.
Từ khóa: M&A; mua bán- sáp nhập; hiệu quả sau M&A
1. Tổng quan nghiên cứu về M&A tại Việt
Nam
M&A
(merger and acquisition) được hiểu một cách tổng quát là các hoạt động tái cấu
trúc doanh nghiệp có sự tham gia của ít nhất hai công ty; kết quả là tạo nên những
thay đổi đáng kể về mặt quản trị, vận hành kinh doanh của các bên tham gia. Nếu
theo hệ quả pháp lý, có thể chia M&A bao gồm các thương vụ mua lại, sáp nhập
và hợp nhất. Còn nếu căn cứ vào phạm vi lãnh thổ, M&A gồm M&A nội địa
và M&A xuyên quốc gia. Ngoài ra, phân loại M&A còn có thể dựa vào loại
tài sản chuyển nhượng (M&A tài sản/M&A nguồn vốn). Động cơ của M&A
khá đa dạng nhưng tựu chung, giá trị cộng hưởng luôn là đích đến của hầu hết
các thương vụ.
Trong
lĩnh vực còn khá mới như M&A tại Việt Nam, các nghiên cứu chuyên sâu mới chỉ
xuất hiện trong vòng 10 năm trở lại đây. Và có thể coi nghiên cứu của Vương
Quân Hoàng, Nguyễn Thị Châu Hà, Trần Trí Dũng (2009) là bước đi khai phá đầu
tiên. Trong bài viết, các tác giả tập trung rà soát hơn 252 thương vụ M&A
diễn ra giữa khoảng thời gian 1990- 2009 chia theo bên mua, bên bán, giá trị
thương vụ, tỷ lệ cổ phần nắm giữ, ngành nghề. Với công tác thống kê đó, bức
tranh sơ bộ về tình hình M&A tại một nền kinh tế mới nổi trước khủng hoảng
tài chính 2008 đã được phác họa với những nét đặc trưng nhất, nổi bật nhất. Các
tác giả chỉ ra rằng, đa phần các thương vụ M&A tại Việt Nam trong giai đoạn
này mang tính chất thân thiện, với giá trị dưới 5 triệu USD là chủ yếu. Trong
công trình này, các tác giả cũng đã chỉ ra những kết quả thành công- thất bại của
các thương vụ M&A dựa trên kết quả chào mua, thương lượng giữa các bên. Một
tỷ lệ rất cao các thương vụ đàm phán thành công, trong đó nếu bên mua là người
nước ngoài thì tỷ lệ thành công là cao nhất trong khi khả năng thất bại sẽ cao
hơn nếu thương vụ có bên mua là người Việt Nam mua công ty nước ngoài. Năm 2006
cũng là năm ghi nhận có nhiều thương vụ M&A diễn ra thành công nhất trong
giai đoạn kể trên. Năm 2013, Vương Quân Hoàng, N. Napier và D.E. Samson có công
trình nghiên cứu một khía cạnh khá đặc sắc trong M&A, đó chính là yếu tố đổi
mới sáng tạo. Các tác giả tìm thấy các dấu hiệu khá rõ rệt về việc các bên tham
gia M&A để theo đuổi thương hiệu và tài sản trong khi yếu tố đổi mới sáng tạo
(innovation) lại khá hạn chế, mặc dù sáng tạo cũng là một thành tố quan trọng để
bên mua- bán tham gia một thương vụ M&A.
Dù
chưa thực sự bao quát hiệu quả hoạt động sau M&A tại Việt Nam, những công
trình trên đã đặt những nền móng đầu tiên cho nghiên cứu thực nghiệm về mua bán
sáp nhập doanh nghiệp giai đoạn 1990- 2009.
Ở một
giác độ nghiên cứu khác, công trình của Tran Lan Thu (2014) lại nghiên cứu tổng
quan về đặc trưng hoạt động M&A tại Việt Nam và tìm kiếm câu trả lời cho động
cơ và nguyên nhân các công ty thực hiện M&A cũng như việc bán của công ty mục
tiêu có đem lại giá trị cho cổ đông của nó trong giai đoạn 2010- Quí 1.2013. Với
việc sử dụng nghiên cứu sự kiện trên mẫu là các công ty niêm yết HNX và HSX,
tác giả có cơ sở để xem xét tác động của thương vụ tới giá cổ phiếu công ty. Cụ
thể, nếu có thông tin M&A xuất hiện, nó sẽ có tác động tích cực lên giá cổ
phiếu của công ty mục tiêu trong ngắn hạn. Tuy vậy, do hạn chế về dữ liệu nên
tác giả chưa tìm ra được con số cụ thể cho lợi ích mà cổ đông bên bán nhận được
qua việc giá cổ phiếu tăng khi có sự kiện M&A xảy ra.
Tìm
kiếm các yếu tố ảnh hưởng lên hiệu quả hoạt động M&A cũng là một hướng
nghiên cứu đã được khai thác xuyên suốt thời gian qua. Trong đó, Viet P.Q
(2015) là một công trình định danh những đặc trưng nổi bật của M&A tại Việt
Nam. Với phương pháp tổng hợp số liệu và phân tích truyền thống, tác giả chỉ ra
những yếu điểm cơ bản của thị trường M&A Việt Nam bao gồm luật pháp và vấn
đề minh bạch thông tin. Từ đó, nghiên cứu đã gợi ý một số giải pháp phù hợp nhằm
phát triển hoạt động này, bao gồm cải thiện luật pháp, thương hiệu doanh nghiệp,
chiến lược M&A, quản trị công ty hậu M&A…
Trong
khi đó, nhóm tác giả Hosseini, J. C., Thu, N. K., & Trang, N. T. T. (2017)
lại chú trọng phân tích nhóm các thương vụ M&A có đối tác nước ngoài
(inbound M&A) là bên mua giai đoạn 2008- 2015. Các thống kê chỉ ra những xu
hướng đầu tư chủ yếu của nhà đầu tư nước ngoài vào các công ty Việt Nam, trong
đó nhấn mạnh lĩnh vực bất động sản và tài chính ngân hàng với tư cách là những
ngành nghề hấp dẫn trong điều kiện nền kinh tế đang hồi phục sau khủng hoảng
2008. Yếu tố chính sách cởi mở làm cho thị trường trở nên hấp dẫn hơn với nhà đầu
tư nước ngoài trong khi những chậm trễ trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước lại kìm hãm đà tăng trưởng của dòng vốn M&A vào Việt Nam.
Nhìn
chung, các nghiên cứu về M&A giai đoạn từ những năm 2000 trở lại đây khá
bao quát, đem lại những nhận thức tổng quan và giá trị về thị trường mua bán
sáp nhập tại Việt Nam thời gian qua, nhất là về giá trị và số lượng thương vụ,
các đặc tính theo từng làn sóng, từng thời kỳ. Tuy nhiên, việc đánh giá một
cách khái quát hiệu quả hoạt động này tại Việt Nam dường như vẫn còn thiếu vắng
các công trình dày công nghiên cứu. Việc đề cập tới hầu như chỉ qua các bài
báo, các bản tin về từng thương vụ đơn lẻ. Từ đó, bức tranh về M&A tại Việt
Nam chưa thể đầy đủ. Chính vì vậy, nhóm tác giả hy vọng rằng những kết quả
trong bài viết sẽ đem lại giá trị nhận thức nhất định về khoảng trống nghiên cứu
này. Phần 2 của bài viết là mô tả về số liệu và các kết quả thu được, kết luận
và những điểm hạn chế nghiên cứu được trình bày trong phần 3.
2. Đánh giá hiệu quả các thương vụ M&A tại
Việt Nam 2005- 2016
2.1. Phương pháp nghiên cứu: Thống kê theo từng thương
vụ có dữ liệu công bố mà nhóm thu thập được trong giai đoạn 2003- 2018. Đây là
giai đoạn M&A bắt đầu được chú ý như là một trong các phương pháp gia tăng
quy mô và hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp tại Việt Nam, cùng với sự ra đời
của hàng loạt các văn bản Luật và dưới luật nhằm mở rộng cơ hội cho nhà đầu tư,
nhất là nhà đầu tư nước ngoài. Việc ban hành các văn bản như Luật Doanh nghiệp
(2005), Luật Cạnh tranh (2004), Luật Đầu tư chứng khoán (2006)… đã mở rộng cánh
cửa cho các doanh nghiệp phát triển, bao gồm doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp ngoại, từ đó làn sóng M&A tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn. Trong
bài viết này, nhóm sử dụng các phân tích mô tả số liệu thông thường và phương
pháp so sánh sai khác tỷ lệ thông qua kiểm định Fisher (Fisher exact test).
Kiểm định Fisher (Fisher exact test) xem xét bảng tần suất 2x2
trong đó thể hiện sự khác biệt giữa hai nhóm tỷ lệ/kết quả (outcome). Giả thiết
H0 cho rằng không có sự khác biệt trong hai nhóm kết quả. Nếu kết
quả kiểm định đạt với p-value nhỏ cùng với khoảng tin cậy hẹp thì có căn cứ để
bác bỏ H0. Tức là, sự khác biệt giữa hai nhóm kết quả trong bảng 2x2 đã kiểm định là có ý nghĩa về
mặt thống kê. Mức ý nghĩa thông dụng là 5% (p-value < 0,05) và 10% (p-value
< 0,1). Kiểm định này được cho là có cùng tính chất với kiểm định Khi bình
phương (Chi-squared test) về sự khác biệt giữa hai nhóm tỷ lệ nhưng cho kết quả
chính xác hơn. Mặt khác, kiểm định Fisher cũng phù hợp với các bảng tần suất
trong đó có ít nhất một giá trị nhỏ hơn 5. Với sự ra đời của hàng loạt phần mềm
kinh tế lượng, dễ dàng thực hiện kiểm định Fisher thông qua SPSS, STATA,
EVIEWS… Trong bài viết, các tác giả dùng phần mềm miễn phí R.
2.2. Dữ liệu:
Để đánh giá một thương vụ tác động tích cực, tiêu cực hay không rõ ràng lên
hoạt động kinh doanh sau M&A là việc không hề dễ dàng, nhất là trong dài
hạn. Để có các thương vụ trong bảng số liệu sử dụng của bài viết, các tác giả
thu thập tin tức được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng như báo cáo tài chính, các trang báo điện tử. Các thương vụ được đánh giá
là có dấu hiệu “tích cực” (positive) nếu như đáp ứng được các tiêu chí nhất
định về hoạt động kinh doanh (doanh thu/lợi nhuận được cải thiện: tăng doanh
thu, lợi nhuận trong các năm quan sát), chênh lệch dương giữa giá bán- giá mua
và việc thoái vốn, thời gian nắm giữ cổ phần đem lại khoản lãi lớn… và các
thông tin liên quan khác. Ngược lại, một thương vụ sẽ được đánh giá là có hiệu
quả không tốt (“tiêu cực”) (negative) nếu giá chuyển nhượng lại phần đã mua nhỏ
hơn giá mua ban đầu (ví dụ: HSBC – Bảo Việt), chỉ hợp tác trong vòng vài năm
sau đó nhanh chóng thoái vốn (như Mobifone – AVG) hoặc công ty kinh doanh kém
hiệu quả (các chỉ tiêu lợi nhuận, thị phần… giảm) như Petro Vietnam –
Oceanbank…. Phần còn lại được xếp vào nhóm “không rõ ràng” (mix) (như Masan –
Vissan, Kinh Đô – Eximbank…). Mặc dù việc đánh giá từng thương vụ tương đối chủ
quan nhưng khi số lượng thương vụ càng lớn, tính khách quan sẽ được cải thiện. Ngoài
ra, một trong những tiêu chí để lựa chọn thương vụ đánh giá là thông tin phải
có thể tiếp cận được trong một khoảng thời gian đủ dài (trên 1 năm); điều này
hạn chế đáng kể lượng số liệu thu thập mặc dù số thương vụ M&A tại Việt Nam
hàng năm lên tới vài trăm.
Với cách làm đó, nhóm tác giả thu thập được 82 thương vụ có thể
đưa vào phân tích trong bài viết này. Hình 1 mô tả sơ bộ về số lượng thương vụ
phân bố theo năm (1a), phân bổ theo năm các thương vụ theo tỷ lệ cổ phần chuyển
nhượng (1b), phân bố các thương vụ theo tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng (1c) và
phân bổ tỷ trọng bên mua – bán theo loại hình doanh nghiệp (1d) bao gồm: công
ty nước ngoài (foreign), công ty niêm yết (listed), công ty nhà nước (SOE) và
các loại hình khác (other).
Nguồn: tác giả tổng hợp
Hình 1-d cho thấy, đối tượng (Target) của M&A trong mẫu chủ
yếu là công ty niêm yết, chiếm 54%, còn lại là công ty nước ngoài (8%), công ty
nhà nước (SOE) (11%) và các loại hình khác (27%). Các công ty bên mua
(Acquirer) chủ yếu là nước ngoài (54%), công ty niêm yết (37%) và còn lại là
các loại hình khác. Thống kê trong nghiên cứu của Vương Quân Hoàng và các cộng
sự (2009) cũng cho kết quả tương tự, chủ yếu bên mua của 252 thương vụ M&A
giai đoạn 1990 – 2009 là các đối tác nước ngoài.
2.3. Kết quả
Trong số 82 thương vụ thu thập được của giai đoạn 2003- 2018, có
42 thương vụ có dấu hiệu tích cực trong kết quả kinh doanh và hoạt động của các
công ty tham gia; 28 thương vụ có các kết quả tiêu cực và số còn lại (12) thể
hiện không rõ ràng.
Bảng 1: Thống kê hiệu
quả hoạt động M&A đối với doanh nghiệp giai đoạn 2003- 2018
Kết
quả đánh giá
|
Không rõ ràng (mix)
|
Tiêu cực
(negative)
|
Tích cực
(positive)
|
Tổng số
|
Số thương vụ
|
12
|
28
|
42
|
82
|
Tỷ lệ
|
15%
|
34%
|
51%
|
100%
|
Nguồn:
tác giả tổng hợp
Hiệu quả của các thương vụ M&A tại Việt Nam qua số liệu
thống kê được trong giai đoạn này ở mức khá khiêm tốn 51%; con số này có thể
xem là tương ứng với tỷ lệ thành công của M&A bình quân trên thế giới –
khoảng 50% (Koi-Akrofi,
G. Y. (2016)) nói chung. Trước đó,
đại diện Vina Capital tại Việt Nam cũng nhận định tỷ lệ thất bại trong các
thương vụ sáp nhập còn tương đối cao, khoảng 50%. Nguyên nhân là do “không tìm
được tiếng nói chung trong định giá doanh nghiệp, trong việc nắm quyền điều
hành, sắp xếp lại nhân sự…” (Nguyệt Thương, 2010).
Theo loại hình thương vụ
Trong số 82 thương vụ M&A, có 75 thương vụ mua lại
(acquisition) và 7 thương vụ sáp nhập (merger) (Bảng 2). Số lượng thương vụ sáp
nhập ít hơn thương vụ mua lại có thể phản ánh một thực tế là các thương vụ mua
lại thường chứa đựng các điều khoản thương lượng không phức tạp bằng các thương
vụ sáp nhập, hơn nữa quy định về M&A ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự rộng
cửa để tiến hành M&A theo phương thức sáp nhập mà bên mua là đối tác nước
ngoài- đối tượng có khả năng tham gia M&A với nguồn lực tài chính mạnh mẽ.
Bảng 2: Hiệu quả hoạt
động M&A 2003- 2018 phân theo phương thức thực hiện thương vụ
Số lượng thương vụ
|
Tỷ lệ
|
|||
Không
rõ ràng hoặc tiêu cực
|
Tích
cực
|
Không
rõ ràng hoặc tiêu cực
|
Tích
cực
|
|
Mua lại
|
39
|
36
|
52%
|
48%
|
Sáp nhập
|
1
|
6
|
14%
|
86%
|
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Vì
mục đích của bài viết là so sánh sự khác biệt giữa các tỷ lệ có ý nghĩa thống
kê, nên trong các bảng tác giả trình bày để các giá trị tỷ lệ ở các cột gần
nhau.
Kết quả tính toán ở Bảng 2 cho thấy, trong các thương vụ sáp
nhập, tỷ lệ có dấu hiệu tích cực là khoảng 86% trong khi ở các loại hình mua
lại, tỷ lệ này tương ứng là 48%. Mặc dù kỳ vọng của các cổ đông khi thực hiện
M&A luôn là tìm kiếm giá trị cộng hưởng, hay giá trị tích hợp lớn hơn so
với các doanh nghiệp riêng rẽ, nhưng thực tế khả năng không đạt được kỳ vọng
lại rất cao.
Để kết luận sự sai khác tỷ lệ này có ý nghĩa thống kê hay không,
nhóm sử dụng kiểm định Fisher. Ở mức ý nghĩa 10%, khoảng tin cậy 95% (0,719;
306,011) và Odds ratio = 6,37; có cơ sở thống kê để nhận định rằng trong giai
đoạn này, các thương vụ sáp nhập có tỷ lệ thành công cao hơn các thương vụ mua
lại.
*Theo đối tượng thực hiện thương vụ (nội địa/nước ngoài)
Việc chia các công ty bên mua/bán thành công ty nội địa
(domestic) và công ty nước ngoài (foreign) không làm mất tính tổng quát và sai
lệch bản chất của thương vụ khi đánh giá.
Công ty bên mua (acquirer):
Bảng 3: Hiệu quả M&A
theo nhóm công ty bên mua nội địa- nước ngoài giai đoạn 2003- 2018
Số lượng thương vụ
|
Tỷ lệ
|
|||
Không rõ ràng hoặc
tiêu cực
|
Tích cực
|
Không rõ ràng hoặc
tiêu cực
|
Tích cực
|
|
Nước ngoài
|
26
|
17
|
60%
|
40%
|
Nội địa
|
14
|
25
|
36%
|
64%
|
Nguồn:
Tác giả tổng hợp
Ở bảng 3, tỷ lệ thành công của thương vụ có bên mua nước ngoài
là 40% trong khi ở các thương vụ có bên mua nội địa cao hơn (64%). Kiểm định
Fisher ủng hộ sự sai khác này, nghĩa là có cơ sở để khẳng định nếu bên mua là
các công ty nội địa thì khả năng thành công thương vụ cao hơn so với bên mua là
đối tác nước ngoài, với mức ý nghĩa 5% (p-value=0,029; khoảng tin cậy 95%
(1,021; 7,378) và Odds ratio = 2,69.
Yếu tố văn hóa và các quy định của chính phủ có thể là những
nguyên nhân chính giúp lý giải thực trạng không mấy thành công của các công ty
nước ngoài khi tham gia vào thị trường Việt Nam qua con đường M&A. Trong
đó, sự khác biệt về văn hóa làm ảnh hưởng đến hiệu quả vận hành sau M&A còn
những quy định về chính sách (đặc biệt là giới hạn về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài tại các tổ chức tín dụng Việt Nam) lại khiến cho việc tham gia
điều hành của bên mua trong công ty mục tiêu bị hạn chế, dẫn tới việc đạt các
mục tiêu trước M&A không được như kỳ vọng. Thực tế này cũng ủng hộ kết quả
đánh giá dựa trên tỷ lệ sở hữu mô tả ở phần sau.
Nếu chia hiệu quả theo phía bên bán (công ty
mục tiêu-target firms):
Bảng 4: Hiệu quả
M&A theo công ty mục tiêu giai đoạn 2003- 2018
Công ty bên bán
|
Số lượng thương vụ
|
Tỷ lệ
|
||
Tích cực
|
Không rõ ràng hoặc
tiêu cực
|
Tích cực
|
Không rõ ràng hoặc
tiêu cực
|
|
Nước
ngoài
|
7
|
2
|
78%
|
22%
|
Nội
địa
|
35
|
38
|
48%
|
52%
|
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Theo Bảng 4, tỷ lệ thương vụ phát triển theo chiều hướng tốt của
bên bán là công ty nước ngoài cao hơn các thương vụ có bên bán là công ty nội
địa. Cụ thể, 78% thương vụ bên bán là nước ngoài thành công trong giai đoạn 2003-
2018 trong khi chỉ có 48% thương vụ bên bán nội địa đem lại các kết quả tích
cực trong khoảng thời gian này. Các thương vụ bên bán là công ty nước ngoài mặc
dù diễn ra với số lượng ít vì thực sự tiềm năng các công ty Việt Nam còn hạn
chế (vốn, kinh nghiệm, khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài…) các thương vụ
được liệt kê đều là những thương vụ điển hình. Trong số đó, có thể kể đến các tên
tuổi như BIDV- PIBBank (Campuchia), Vinamilk- Diary Driftwood, FPT Telecom- RWE
IT Slovakia…
Kiểm định Fisher cho p-value=0,156, 95% CI = (0,025;1,530) và
Odds ratio = 0,267. Mặc dù khoảng tin cậy 95% tương đối hẹp nhưng vì p-value
lớn (0,156) chưa có cơ sở thống kê khẳng định sự khác biệt trên là có ý nghĩa.
Nói cách khác, chưa thể kết luận bên mua mục tiêu là công ty nước ngoài hay nội
địa sẽ giúp cho thương vụ M&A tại Việt Nam thành công hơn.
*Theo tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng:
Tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng có ý nghĩa rất lớn trong việc bên
mua có quyền kiểm soát và các lợi ích đối với công ty bên bán.
Bảng 5: Hiệu quả
thương vụ M&A theo tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng
Tỷ
lệ cổ phần chuyển nhượng
|
Số lượng thương vụ
|
Tỷ lệ
|
||
Không rõ ràng hoặc
tiêu cực
|
Tích cực
|
Không rõ ràng hoặc
tiêu cực
|
Tích cực
|
|
Trên 35%
|
26
|
36
|
42%
|
58%
|
Dưới 35%
|
14
|
6
|
70%
|
30%
|
Nguồn: tác giả tổng hợp
Có một sự chênh lệch rất rõ ràng giữa tỷ lệ các thương vụ thành
công nếu chia theo lượng cổ phần nắm giữ. Nếu tỷ lệ mua lại dưới 35%, tỷ lệ
thành công chỉ khoảng 30%, trong khi đó nếu bên mua sở hữu lượng cổ phần lớn
hơn 35% cổ phần của bên bán thì tỷ lệ gặt hái được các dấu hiệu tích cực trong
mẫu thống kê lên tới 58%. Sai khác này về mặt thống kê có mức ý nghĩa 5% nếu thực
hiện kiểm định Fisher (p-value = 0,039; 95% CI = (0,086;1,012) và Odds ratio
=0,314).
Như vậy, có cơ sở để khẳng định rằng, nếu tỷ lệ cổ phần chuyển
nhượng là không đủ để bên mua nắm quyền biểu quyết trong công ty mục tiêu thì
khả năng thành công của thương vụ sẽ thấp hơn trường hợp nắm được quyền biểu
quyết thông qua tỷ lệ sở hữu trên 35%. Điều này có thể được giải thích vì các
quyền lợi của bên mua trong công ty mục tiêu bị hạn chế nếu tỷ lệ cổ phần nắm
giữ dưới 35% (không có quyền biểu quyết các quyết định quan trọng trong doanh
nghiệp). Việc các công ty nước ngoài (Bảng 3) là người mua chủ đạo (43/82
thương vụ có bên mua là người nước ngoài) nhưng vì tỷ lệ sở hữu dưới 35% khiến
cho xác suất thành công của thương vụ không lý tưởng như trường hợp sở hữu tỷ
lệ cổ phần trên 35%.
3. Kết luận và một số gợi ý nghiên cứu
Từ đầu những năm 2000 trở lại đây, khi Việt Nam bắt đầu mở rộng
cửa hơn với thu hút vốn FDI, nền kinh tế thị trường đã có những bước chuyển
mình mạnh mẽ. Trong dòng chảy đó, xu hướng tăng trưởng qua M&A trở thành
một trong những phương cách mới mẻ thu hút cả giới đầu tư, các doanh nghiệp và
cả nhà nghiên cứu. Số lượng và quy mô thương vụ M&A hàng năm lên tới hàng
trăm thương vụ và giá trị lên tới hàng tỷ USD. Một khi đã tham gia vào thương
vụ, các bên luôn mong muốn sẽ thu được lợi ích lớn hơn so với đứng riêng rẽ. Nhưng
kỳ vọng là một chuyện và thực tế như thế nào lại là chuyện khác. Kết quả là,
trong số 82 thương vụ có thể thống kê trong giai đoạn này, chỉ có 51% là có các
dấu hiệu tích cực.
Trong bài viết, nhóm tác giả đã cố gắng tìm kiếm và phác thảo những
nét sơ khai nhất về hiệu quả hoạt động M&A một cách tổng quát trong giai
đoạn 2003- 2018 qua các thương vụ có thông tin hiện hữu. Nghiên cứu chỉ ra
rằng, nếu thương vụ được thực hiện bởi bên mua là công ty trong nước thì khả
năng thành công sẽ cao hơn là thương vụ có bên mua là người nước ngoài. Thêm
vào đó, nếu tỷ lệ cổ phần chuyển nhượng từ 35% trở lên, tỷ lệ thương vụ có dấu
hiệu tích cực cũng lớn hơn các giao dịch mà tỷ lệ sở hữu dưới 35%. Thêm vào đó,
thương vụ diễn ra theo kiểu sáp nhập (merger) sẽ có khả năng cho kết quả tốt
hơn là thương vụ thực hiện theo phương thức mua lại (acquisition).
Tuy nhiên, do những đánh giá vẫn còn mang màu sắc chủ quan (dù
dựa trên thông tin được các bên công bố) nên nhóm tác giả cho rằng đây là hạn
chế lớn nhất của bài viết. Tiếp theo là mẫu nghiên cứu có quy mô còn khiêm tốn
và chưa bao quát tất cả các lĩnh vực M&A tại Việt Nam trong thời gian qua,
ảnh hưởng tới tính đại diện của kết quả khảo cứu. Cũng chính vì vậy, nhóm không
thực hiện được mô hình kinh tế lượng trong đó khảo sát những thành tố (nguyên
nhân) tạo nên sự thành công hay thất bại của các thương vụ M&A tại Việt Nam
giai đoạn 2003- 2018. Nếu các nghiên cứu khác khắc phục được những vấn đề trên,
kết quả sẽ trở nên hoàn thiện và thuyết phục hơn rất nhiều.
Tài liệu tham khảo
Koi-Akrofi, G. Y. (2016). Mergers and
acquisitions failure rates and perspectives on why they fail. International
Journal of Innovation and Applied Studies, 17(1), 150.
Hosseini, j. C., thu, n. K., & trang, n. T.
T. (2017). Vietnam inbound m&a activity: the role of government policy and
regulatory environment. The south east asian journal of management.
Nguyệt Thương, Tỷ lệ thất bại của các
thương vụ M&A còn cao, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 25/5/2010, truy cập ngày
9/3/2018 tại http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/chungkhoan/34992/Ty-le-that-bai-cua-cac-thuong-vu-M&A-con-cao.html
Thu, t. L. (2014). Overview on vietnam merger
and acquisition: characteristics and issues (listed companies on hose and
hastc)(doctoral dissertation, international university hcmc, vietnam).
Viet, p. Q. (2015). Some recommendations of
m&a activity in vietnam today. Issues in economics and business, 1(1),
30.
Vuong, q. H., tran, t. D., & nguyen, t. C.
H. (2009). M&a market in vietnam's transition economy.
Vuong, q. H., napier, n. K., & samson, d.
E. (2013). Innovation as determining factor of post-m&a performance: the
case of vietnam.
No comments:
Post a Comment