Monday, March 5, 2018

ĐỊA LÝ SỨC MẠNH TQ: Bắc Kinh có thể vươn xa trên biển và đất liền như thế nào?

5-3-2018 --- Nhà địa lý người Anh Sir Halford Mackinder năm 1904 đã kết thúc bài viết nổi tiếng “Trục địa lý của lịch sử” (The Geographical Pivot of History) bằng một tham chiếu đáng lo ngại về Trung Quốc.  Sau khi giải thích tại sau Âu Á lại là điểm tựa chiến lược của cường quốc thế giới, ông cho rằng “TQ sẽ mở rộng quyền lực vượt ra cả biên giới của họ” có thể tạo ra hiểm họa da vàng (yellow peril) [sự bành trướng quyền lực của người châu Á sang các nước phương Tây]  đối với tự do của thế giới chỉ bởi họ sẽ hướng thêm một mặt trận ra đại dương nơi có những nguồn lực của lục địa lớn, một lợi thế mà chưa bị người Nga từ chối trong trục của khu vực. Đặt sang một bên những khía cạnh tình cảm về phân biệt chủng tộc, điều đã trở nên phổ biến qua các thời đại, cùng với sự hung hăng gây ra bởi sự gia tăng của thế lực phi-phương Tây (non Western) bất cứ lúc nào, Mackinder cho rằng, trong khi Nga – một cường quốc khác của khu vực – về cơ bản là và vẫn là, một vùng đất mà đại dương bị đóng bởi băng, thì Trung Quốc lại sở hữu 9000 dặm bờ biển ôn đới với rất nhiều cảng biển tự nhiên tốt, và có cả sức mạnh về đất đai và đại dương. Ông thực sự lo ngại rằng một ngày kia TQ có thể chinh phục Nga. Tầm với của TQ mở rộng từ Trung Á với sự giàu có về tài nguyên khoáng sản và hydro-cacbon tới các tuyến đường vận chuyển chính của Thái Bình Dương. Sau đó, trong Những ý tưởng và thực tế Dân chủ, Mackinder thậm chí định hướng thế giới bằng “việc xây dựng cho ¼ nhân loại bằng một nền văn minh mới, nửa Đông nửa Tây”.

Một điểm rõ ràng là Địa lý tự nhiên của TQ thường bị bỏ qua khi trong các cuộc thảo luận về sự năng động kinh tế và quyết đoán quốc gia. Nhưng lại là điều cần thiết: TQ có một vị trí quan trọng trong địa chính trị của thế giới ngay cả khi định hướng của quốc gia này đối với quyền lực toàn cầu không nhất thiết phải là cố định. (TQ đã thường xuyên có tăng trưởng kinh tế bình quân trong 30 năm qua hơn 10% nhưng gần như chắc chắn không kéo dài thêm 30 năm nữa.) Trung Quốc kết hợp nền “văn minh thủy lực” (hydraulic civilization) với phong cách Phương Tây hiện đại cực đoan, gợi nhớ tới phương Đông cổ đại: nhờ điều khiển tập trung, một chế độ có thể tranh thủ sức lao động của hàng triệu người để xây dựng những cơ sở vật chất chủ yếu. Điều này làm cho TQ không ngừng năng động theo các cách mà những nền dân chủ với tất cả sự ôn hòa của họ không thể làm được. Khi TQ được Cộng sản lãnh đạo trên danh nghĩa, - những mảnh ghép của mà một số trong 25 triều đại đã đi qua sau 4000 năm – được tiếp thu công nghệ phương Tây hiện đại, tích hợp chúng thành một hệ thống văn hóa kỷ luật và xây dựng thành một kinh nghiệm độc đáo giữa rất nhiều thứ khác trong  việc hình thành mối quan hệ triều cống với các quốc gia khác.  Một quan chức Singapore nói rằng “Người TQ quyến rũ bạn khi họ muốn quyến rũ bạn, ép buộc bạn khi họ muốn ép buộc, và họ làm điều đó khá hệ thống”.

Sự năng động trong nội bộ TQ dẫn tới các tham vọng ra bên ngoài. Các đế chế hiếm khi xuất hiện do định sẵn, mà chúng tự lớn lên. Khi các quốc gia trở nên mạnh mẽ hơn, họ trau dồi các nhu cầu mới và những hiểu biết đó buộc họ phải mở rộng dưới những hình thức khác nhau. Thậm chí, dưới sự quản lý của những vị Tổng thống nổi bật như Rutherford Hayes, James Garfield, Chester Arthur, Benjamin Harrison, Hoa Kỳ đã tăng trưởng ổn định và lặng lẽ vào cuối thế kỷ XIX. Khi nó giao thương nhiều hơn với các nước khác, những mối quan hệ lợi ích kinh tế và chiến lược phức tạp đã được hình thành ở cả những nơi xa xôi. Đôi khi cả ở những nơi như Nam Mỹ hay Thái Bình Dương, Hoa Kỳ cũng có lợi ích chiến lược dẫn tới hành động về quân sự. Hoa Kỳ cũng đã tập trung ra bên ngoài vì nó  củng cố cả các vấn đề nội bộ các lục địa, như trận chiến quan trọng cuối cùng trong Chiến tranh Ấn Độ năm 1890.

Ngày nay, TQ cũng bắt đầu củng cố biên giới của mình và mở rộng ra bên ngoài. Hành động của TQ cũng hung hăng như Hoa Kỳ một thế kỷ trước, nhưng vì những nguyên do hoàn toàn khác nhau. Trung Quốc không sử dụng phương pháp tiếp cận ngoại giao tới thế giới, tìm cách quảng bá một ý thức hệ hay một hệ thống chính thể. Tiến bộ đạo đức trong vấn đề quốc tế là mục tiêu của Hoa Kỳ, nhưng TQ thì không. Hành động mở rộng của TQ được thúc đẩy bởi nhu cầu đảm bảo năng lượng, kim loại và khoáng sản chiến lược để hỗ trợ đời sống đang ngày càng tăng lên của một quốc gia có dân số lớn.

Để thực hiện điều này, TQ đã xây dựng những mối quan hệ quyền lực thuận lợi cả trong vùng lãnh thổ tiếp giáp lẫn những nơi xa xôi giàu tài nguyên. Vì những gì TQ đã làm với mục đích dân tộc cốt lõi – sự tồn vong kinh tế - TQ có thể được định nghĩa như một thế lực chủ nghĩa thực tế cực đoan (über-realist power). TQ tìm kiếm sự hiện diện mạnh mẽ trong suốt các vùng của Châu Phi giàu tài nguyên cũng như tiếp cận và quản lý các cảng từ Ấn Độ Dương đến biển Nam Trung Hoa (South China Sea) mà kết nối các nước Ả-rập – Ba Tư giàu tài nguyên với TQ. Không có lựa chọn khác, TQ không mấy quan tâm tới chính thể mà nó vận hành; nó chỉ yêu cầu sự ổn định, chứ không đức hạnh như quan điểm phương Tây. Và bởi vì có một số chính thể trong số đó là đen tối và độc tài (như Myanmar, Iran, Malaysia, và Sudan), nên việc cọ rửa thế giới để mang về tài nguyên của TQ khiến TQ xung đột lợi ích với Hoa Kỳ theo định hướng truyền giáo, cũng như với Ấn Độ và Nga, việc chống lại ảnh hưởng của TQ ngày càng tăng vọt.

TQ không phải là mối quan tâm sống còn đối với các quốc gia này.  Với Mỹ, mối đe dọa quân sự từ TQ là gián tiếp và cũng khó có chiến tranh. Thách thức mà nước này đặt ra với Mỹ là địa lý – với các vấn đề quan trọng về nợ, thương mại và trái đất nóng lên. Những khu vực ảnh hưởng của TQ đang tăng ở Á – Âu và Phi, không theo kiểu chủ nghĩa đế quốc thế kỷ XIX mà tinh tế hơn phù hợp với toàn cầu hóa. Chỉ đơn giản bằng cách đảm bảo nhu cầu kinh tế, TQ đang thay đổi cán cân quyền lực sang phía Đông và do đó là sự chú ý đặc biệt của Hoa Kỳ. Nhờ vị trí chiến lược cả biển và đất liền, TQ đang ảnh hưởng mở rộng từ Trung Á đến biển Nam Trung Hoa, từ viễn đông nước Nga đến Ấn Độ Dương. TQ là một cường quốc lục địa tăng lên, theo Napoleon, các chính sách của quốc gia như vậy là cố hữu về mặt địa lý.

Những nhạy cảm về vấn đề biên giới
Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực của TQ mà người bản địa đã phải phản lại sự kéo sang của văn minh Trung Hoa. Theo một cách nào đó, hai khu vực này khiến TQ như một đế quốc. Thêm vào đó, căng thẳng sắc tộc ở hai khu vực này cũng làm phức tạp hóa mối quan hệ của TQ với các nước lân cận. “Tân Cương” là tỉnh cực tây của TQ, có nghĩa là “lãnh địa mới”, và nó gợi đến Turkestan TQ, một khu vực gấp hai lần Texas của Mỹ, nằm xa trung tâm TQ, trên sa mạc Gobi. Khu vực này mới chính thức trở thành lãnh thổ của TQ từ thế kỷ XIX. Lịch sử hình thành của tỉnh này là một trong những “bất ổn bền vững” , ngắt  quãng bởi các cuộc nổi dậy vào các giai đoạn khác nhau cho tới những năm 1940.  Năm 1949, Mao Trạch Đông tiến vào khu vực này và bắt buộc tích hợp vào TQ. Nhưng gần đây nhất, những năm 1990 và hồi năm ngoái, dân tộc Turkic người Duy Ngô Nhĩ – con cháu của người Thổ Nhĩ Kỳ cai trị Mông Cổ thế kỷ thứ 7 và 8 – đã nổi loạn chống chế độ của Bắc Kinh.

Người Duy Ngô Nhĩ có khoảng 8 triệu người, chiếm ít hơn 1% dân số TQ nhưng chiếm 45% dân số Tân Cương. Và đây là một trong những nguyên nhân của bất ổn.  Phần lớn người Hán tập trung ở vùng đồng bằng trung tâm và gần Thái Bình Dương, trong khi các cao nguyên khô ở phía tây và tây nam lại là địa bàn lịch sử của người Duy Ngô Nhĩ và dân tộc thiểu số Tây Tạng. Trong khi đó, TQ muốn toàn quyền kiểm soát cao nguyên. Để đảm bảo điều này – cùng với sự kiểm soát tài nguyên – Bắc Kinh đã nhiều lần đồng hóa các dân tộc ở đây với người Hán. Bắc Kinh cũng tích cực vận động các nước dân tộc độc lập ở Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Á, một phần để họ có thể lấy đi người Duy Ngô Nhĩ ở bất kỳ vùng phía sau nào mà có thể.

Bắc Kinh cũng đã tác động để ảnh hưởng đến khu vực Trung Á, đã lan sang khu vực Âu – Á nhưng không đủ xa để sử dụng tài nguyên. Ảnh hưởng của Bắc Kinh sang Trung Á có hình dạng hai đường ống lớn sắp được hoàn thành đến Tân Cương: một để mang dầu từ biển Caspian qua Kazakhstan, một dẫn khí tự nhiên từ Turkmenistan qua Uzbekistan và Kazakhstan. Sự khát tài nguyên của TQ cũng đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẽ chấp nhận rủi ro để đảm bảo chúng. TQ cũng đang khai thác đồng ở phía Nam Kabul (Afganistan) và đang định hướng sang sắt, vàng, đá quý của khu vực. TQ cũng  hy vọng sẽ xây dựng đường ống dẫn năng lượng thông qua Afghanistan và Pakistan, cùng với đó là kết nối với việc thống trị Trung Á với các cảng biển Ấn Độ Dương. Địa chiến lược của TQ sẽ được tăng cường nếu Hoa Kỳ ổn định Afghanistan.

Cũng như Tân Cương, Tây Tạng là một vùng quan trọng với TQ. Nếu không kiểm soát vùng này, TQ sẽ bị Ấn Độ làm ảnh hưởng quyền lực. Cao nguyên Tây Tạng cũng giàu quặng sắt, chiếm phần lớn lãnh thổ của TQ. Điều này lý giải tại sao TQ lại kinh dị với triển vọng độc lập của người Tây Tạng, và tại sao TQ lại điên cuồng xây dựng đường giao thông và đường sắt qua khu vực này. Quyền lực của Ấn Độ với TQ sẽ tăng lên nếu có Tây Tạng.  Tây Tạng sẽ làm tăng thêm quyền lực của Ấn Độ với Châu Á. Mối quan hệ căng thẳng gần đây về vấn đề biên giới giữa TQ và Ấn Độ một phần có lẽ cũng do Ấn Độ là nơi của chính phủ lưu vong Đức Đại Lạt Ma từ 1957. Đức Đại Lạt Ma kế tiếp có thể đến từ vành đai văn hóa Tây Tạng trải dài trên khắp bắc Ấn, Nepal, Bhutan và có lẽ sẽ ủng hộ Ấn Độ nhiều hơn và chống TQ hơn. Một trò chơi lớn sẽ được chơi giữa TQ với Ấn Độ không chỉ ở khu vực mà còn ở Bangladesh và Sri Lanka. Về mặt pháp lý, Tân Cương và Tây Tạng thuộc TQ nhưng những mối quan hệ căng thẳng giữa chính phủ với các dân tộc tại đây làm Bắc Kinh giống như là đang đi mở rộng ảnh hưởng cốt lõi của dân tộc Hán, và càng làm cho hai tỉnh có cớ để kháng cự.

Ngấm ngầm leo thang kiểm soát
Ngay cả khi TQ đã ổn định biên giới không có nghĩa là nguy hiểm với nước này đã hết. Biên giới phía bắc nước này tiếp xúc với Mông Cổ. Đây là vùng có mật độ dân số thấp nhất thế giới nhưng lại giàu tài nguyên. Trong khi TQ, với sự phát triển mạnh của công nghiệp hóa và đô thị hóa, đã tự biến mình thành người tiêu thụ lớn nhất thế giới về nhôm, đồng, chì, kẽm, niken, thiếc, quặng sắt. Từ 1990, tiêu thụ quặng sắt của TQ đã tăng từ 10% lên 2%. Mông Cổ trông giống như một phần bị cắn ra khỏi lưng TQ. Với Tây Tạng, Macao và Hồng Kong đã trong tầm kiểm soát của Bắc Kinh, Mông Cổ sẽ là một ví dụ để đánh giá mức độ nuôi dưỡng chủ nghĩa đế quốc của TQ. Trước đây, TQ từng chinh phục Mông Cổ để thỏa mãn cơn khát với dầu, than đá, uranium và đồng cỏ trống.

Phía Bắc Mông Cổ và 3 tỉnh viễn Đông của TQ nằm sát Nga. Trước đây, khi TQ còn yếu, Nga đã mở rộng phạm vi hoạt động vào vùng này. Nhưng bây giờ TQ đang mạnh lên. Chỉ cần qua biên giới từ khoảng 7 triệu người Nga ở vùng Viễn Đông là sẽ tới 100 triệu người TQ, với mật độ dân số lớn gấp 62 lần bên Nga.  Người di cư TQ đã được lựa chọn vào Nga, cư trú ở một vùng rộng lớn ở Chita, bắc Mông Cổ và các nơi khác trong khu vực. Mua lại tài nguyên là chính sách đối ngoại của TQ ở khắp mọi nơi trong khi vùng viễn Đông Nga có dân cư thưa thớt lại giàu tài nguyên ( khí đốt, dầu mỏ, kim cương và vàng). Moscow cũng đã cảnh giác với người nhập cư TQ. Như với Mông Cổ, nỗi sợ hãi không phải một ngày TQ xâm nhập hay thôn tính vùng viễn đông của Nga mà là leo thang kiểm soát nhân khẩu học và ảnh hưởng của các công ty TQ trong khu vực. Xung đột Nga Trung đã có từ cuối những năm 1960, từ thời Chiến Tranh Lạnh. Hoa Kỳ những năm 1970 đã có thể tận dụng lợi thế của sự rạn nứt giữa TQ và Nga. Trong tương lai, khi sức mạnh TQ lớn hơn, Hoa Kỳ có thể hình dung hợp tác chiến lược với Nga để cân bằng liên minh chống lại TQ.

Những hứa hẹn phương Nam
Ảnh hưởng của TQ cũng đã lan rộng về phía đông nam. Thực tế đó lại là các nước tương đối yếu của Đông Nam Á mà sự trỗi dậy của TQ gặp kháng cự yếu ớt nhất. Về mặt địa lý, có ít sự ngăn trở giữa TQ với Việt Nam, Myanmar và Lào. TQ ảnh hưởng một cách tự nhiên về mặt này qua đường bộ và đường sông qua Côn Minh, Vân Nam, TQ. Quốc gia lớn nhất của ASEAN là Myanmar. Nếu Pakistan là khu vực Balkan của Châu Á thì Myanmar cũng giống như Bỉ thế kỷ XX, có nguy cơ bị xâm tràn bởi hàng xóm. Giống như Mông Cổ, viễn đông Nga và các vùng lãnh thổ khác trên biên giới đất liền của của TQ, Myanmar là một thể trạng yếu ớt nhưng giàu tài nguyên mà TQ rất cần. Cả TQ và Ấn Độ cùng cạnh tranh để phát triển tại  cảng nước sâu Sittwe trên Ấn Độ Dương, bờ biển Myanmar, cả hai cùng nuôi tham vọng xây dựng đường ống dẫn khí chạy từ các khu vực ngoài khơi vịnh Belgan.

Với các nước trong khu vực ASEAN, Bắc Kinh đã phần nào thực hiện chiến lược chia để trị. Lịch sử cho thấy, TQ từng tiến hành đàm phán với từng nước ASEAN thay vì với ASEAN như một khối. Thỏa thuận của TQ về thương mại với khối cũng thể hiện chiến lược của TQ với khối như thế nào. TQ sử dụng ASEAN như một thị trường của hàng hóa xuất khẩu, điều này đã biến ASEAN thị trường mà TQ xuất khẩu thặng dư thương mại, bất chấp việc nơi đây trở  thành một bãi rác với hàng hóa công nghiệp của TQ được sản xuất bởi lao động đô thị giá rẻ.

Điều này xảy ra cũng một phần do hoàng gia Thái Lan yếu ớt do những vấn đề chính trị, giảm vai trò như một mỏ neo khu vực và đối trọng với TQ. Phía nam của Thái Lan, Singapore và Malaysia đang đi vào quá trình chuyển đổi dân chủ đầy thách thức để xây dựng quốc gia của họ. Malaysia tiếp tục là cái bóng của TQ về kinh tế, ngay cả khi dân số TQ và dân tộc của họ cũng cảm thấy bị ảnh hưởng bởi người Hồi giáo. Còn Singapore cũng sợ trở thành một chư hầu của TQ mặc dù phần đông dân số là người Hoa, trong nhiều năm nay, Singapore đã nuôi dưỡng mối quan hệ huấn luyện quân sự với Đài Loan và dân tộc TQ. Lý Quang Diệu cũng đã công khai kêu gọi Hoa Kỳ ở lại trong khu vực để gắn bó cả quân sự và ngoại giao.

Indonesia thì ở trong thế lưỡng nan với Hoa Kỳ và thế giới Hồi giáo khi lo sợ sự hiện diện của Mỹ tại đây sẽ làm người theo đạo Hồi tức giận, nhưng lại là một sự bảo hiểm chống lại TQ. Khi sức mạnh của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á vượt quá mức cơ bản và sức mạnh của TQ tăng lên, các nước trong khu vực đang có xu hướng hợp tác để chống lại chính sách chia để trị của TQ. Ví dụ, Malaysia, Singapore và Indonesia đã cùng hợp tác chống vi phạm bản quyền. Nếu càng ít phụ thuộc vào TQ, các quốc gia này càng có cơ hội ít bị đe dọa hơn.

Về quân sự TQ
Trong khi Trung Á, vùng viễn đông của Nga và Đông Nam Á là khu vực tự nhiên mà TQ ảnh hưởng nhưng lại là vùng có vùng biên giới chính trị là không thay đổi, thì tình hình ở bán đảo Triều Tiên lại khác. Bản đồ TQ đặc biệt cắt ngắn ở đó và biên giới chính trị cũng có thể thay đổi.

Chế độ Bắc Triều Tiên về cơ bản là ổn định và làm sáng tỏ nó có thể làm rõ toàn khu vực. Bán đảo Triều Tiên nắm giữ vị trí quan trọng về giao thông hàng hải đến bắc TQ. Không ai thực sự hy vọng TQ sẽ thôn tính bất kỳ phần nào của bán đảo này nhưng nó vẫn có bất tiện với chủ quyền mà quốc gia khác có, đặc biệt ở miền Bắc. Và mặc dù hỗ trợ cho chế độ Stalin Jong Il, TQ cũng có kế hoạch xa hơn. TQ cũng muốn gửi trả lại Bắc Triều Tiên hàng ngàn kẻ đào ngũ mà hiện đang ở TQ để làm cơ sở chính trị cho việc tiếp quản kinh tế dần dần của Bắc Kinh với khu vực sông Tumen, nơi gặp gỡ của TQ, Bắc Triều Tiên và Nga, nơi có các cơ sở cảng biển tốt để thông qua Nhật Bản vươn ra Thái Bình Dương.

Đây là lý do tại sao Bắc Kinh muốn thấy một nhà nước độc tài phát triển, hiện đại hơn tại Bắc Triều Tiên, một vùng đệm giữa TQ với tư bản năng động Hàn Quốc. Nhưng thống nhất trên bán đảo Triều Tiên cũng có thể giúp Bắc Kinh hưởng lợi. Một bán đảo thống nhất với chủ nghĩa dân tộc có thể nuôi dưỡng sự thù hằn với TQ và Nhật Bản, hai nước từng chiếm đóng trong quá khứ.  Nhưng thù địch với Nhật đặc biệt lớn so với thù hằn đối với TQ. Và do đó, quan hệ với TQ sẽ mạnh hơn so với Nhật Bản. Một Triều Tiên thống nhất sẽ có ít hoặc nhiều sự kiểm soát từ Seoul trong khi Seoul lại đang là đối tác thương mại lớn của TQ. Suy cho cùng, khi thống nhất, Triền Tiên sẽ nghiêng nhiều hơn về phía TQ và quân đội Mỹ sẽ có ít lý do để đóng tại đây. Nói cách khác, một Triều Tiên thống nhất sẽ làm tăng ảnh hưởng của TQ tại Đông bắc Á và giảm ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực này.

Trong vấn đề với Triều Tiên, TQ có nhiều cơ hội hơn nguy cơ. TQ phát triển như một vùng đất và biển mà sẽ làm lu mờ vai trò của Nga với Á – Âu. Các chính trị gia cũng nhận định “các quốc gia nguy hiểm nhất trong hệ thống chính trị quốc tế là quyền hạn lục địa với quân đội lớn”. Điều này càng lý giải tại sao ảnh hưởng của TQ lớn khi năng lực ở lục địa được tăng lên.  Quân giải phóng ND TQ đã đối phó với tình trạng khẩn cấp trong động đất ở Tứ Xuyên năm 2008, tình trạng bất ổn dân tộc tại Tây Tạng và Tân Cương, thách thức an ninh tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên, điều này mới chỉ thể hiện quân đội của TQ có thể di chuyển từ đầu này sang đầu khác của TQ, chứ chưa thấy dấu hiệu có thể di chuyển với vật tư, thiết bị nặng ở mức cần thiết cho việc triển khai quân sự.

Để đạt được điều đó có lẽ không quá nhiều khó khăn, nhưng TQ có thể tăng quyền lực ở đất liền bằng các phương tiện nhân khẩu học và doanh nghiệp, mà không cần dự phòng viễn chinh mặt đất. Sức mạnh chưa từng có trên mặt đất của TQ có được là nhờ các nhà ngoại giao nước này đã nhiều năm bận rộn giải quyết các vấn đề với các nhà nước Trung Á, Nga và các nước láng giềng khác (Ấn Độ là một ngoại lệ đáng chú ý). Tầm quan trọng của sự thay đổi này không thể được phóng đại.  TQ không còn là một đạo quân mang xuống Mãn Châu; trong chiến tranh Lạnh, sự hiện diện đáng ngại đã buộc Mao Trạch Đông phải tập trung ngân sách vào quân đội và bỏ bê lực lượng hải quân. Như Vạn Lý Trường Thành là một minh chứng, TQ đã từng bận rộn với xâm lược trên bộ một hoặc nhiều lần trong quá khứ. Không còn.

Tiếp cận đường biển
Khi đã thuận lợi trên đất liền, TQ có nhiều điều kiện hơn để phát triển hải quân. Khi các thành phố ven biển và các đảo quốc theo đuổi sức mạnh hàng hải là điều hiển nhiên, làm vậy là một bước tiến trong quyền lực lịch sử biển đảo của TQ. Điều này có thể là một sự xa xỉ đạt được khá dễ dàng khi đất liền đã giàu có. TQ chiếm lợi thế về bờ biển ôn đới và nhiệt đới của Đông Á và Thái Bình Dương, và biên giới phía nam là đủ gần với Ấn Độ Dương. Trong thế kỷ XXI, quyền lực cứng của TQ với nước ngoài chủ yếu sẽ là bằng hải quân.

Điều đó thấy rằng, TQ sẽ phải đối mặt với môi trường thù địch xa hơn trên biển, hơn là trên đất liền. Ít thấy hải quân TQ nhưng rắc rối trong cái mà TQ gọi là “chuỗi đảo đầu tiên”: bán đảo Triều Tiên, quần đảo Kuril của Nhật (bao gồm cả quần đảo Ryuku), Đài Loan, Philippines, Indonesia và Australia. Riêng Australia thì có thể ngoại trừ khỏi điểm nóng tiềm tàng.

TQ đã bị lôi kéo vào hàng loạt tranh chấp khác nhau trên các bộ phận khác nhau của đường đại dương năng lượng phong phú của biển Nam Trung Hoa [biển Đông] và  Hoa Đông: với Nhật trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và với Việt Nam trên quần đảo Trường Sa (Spartly). Tranh chấp như vậy có thể giúp Bắc Kinh củng cố chủ nghĩa dân tộc trong nước nhưng về cơ bản bối cảnh trên biển của hải quân là ảm đạm. Chuỗi đảo đầu tiên được các chính trị gia gọi là ‘Vạn Lý Trường Thành ngược”: một tuyến đồng minh của Mỹ được tổ chức tốt sẽ có tác dụng như một loại tháp bảo vệ và ngăn sự tiếp cận của TQ với Thái Bình Dương.

Câu trả lời của TQ với cảm giác bị đóng hộp như vậy đã tăng lên theo thời gian. Sức mạnh hải quân là lành tính hơn so với sức mạnh lục quân: lực lượng hải quân không thể tự chiếm khu vực rộng lớn và phải làm nhiều hơn là chỉ chiến đấu – bảo vệ thương mại. Do đó, có thể mong đợi hải quân TQ nhân từ như các quốc gia hàng hải khác trước đó như Venice, Anh, Mỹ và quan tâm chính là bảo quản hàng hải hòa bình, bao gồm cả miễn phí chuyển động thương mại. Nhưng TQ cũng không phải là quá tự tin. Vẫn còn quyền lực chưa an toàn, TQ nghĩ về “chuỗi đảo đầu tiên” và “chuỗi đảo thứ hai” (chuỗi thứ hai bao gồm các đảo chủ quyền của Mỹ như Guam và Bắc Mariana) cho rằng người TQ xem tất cả các quần đảo này là phần mở rộng quần đảo lãnh thổ của người TQ. Trong một mốt suy nghĩ về trò chơi tổng bằng không (zero-sum game), các nhà lãnh đạo hải quân TQ đang tái hiện lại một cách tích cực triết lý chiến lược hải quân của Mỹ hồi thế kỷ XX, Alfred Thayer Mahan. Nhưng họ chưa có lực lượng hải quân để thực hiện điều đó.  Và sự khác biệt giữa nguyện vọng và phương tiện đã đưa tới một số khó khăn trong thời gian qua. T10-2006, một tàu ngầm TQ đã quấy nhiễu tàu sân bay USS Kitty Hawk và sau đó nổi lên trong tầm bắn ngư lôi của tàu sân bay này. T11-2007, TQ đã từ chối tàu sân bay này và các nhóm tác chiến nhập cảnh vào cảng Victoria khi họ tìm kiếm sự nghỉ ngơi sau việc xây dựng vùng biển và ảnh hưởng của thời tiết (các tàu này đã thăm Hồng Kong 2010). T3-2009, các tàu của TQ đã quấy nhiễu tàu khảo sát của Hoa Kỳ USNS Impeccable trong khi nó được công khai tiến hành các hoạt động bên ngoài giới hạn lãnh hải 12 dặm của TQ ở biển Hoa Đông, chặn đường và giả vờ đâm nó. Đây là những hành động không có quy mô lớn nhưng cũng là một bước leo thang.

Sự quyết đoán của TQ cũng được thể hiện bằng việc mua lại nguồn lực. Bắc Kinh đang phát triển khả năng tích hợp bất đối xứng để chặn  hải quân Mỹ xâm nhập vào biển Hoa Đông và các vùng nước ven biển khác của nước này. TQ đã hiện đại hóa tàu khu trục và có kế hoạch mua tàu sân bay nhưng không mua tài chiến trên cảng. Thay vào đó, TQ đã tập trung xây dựng các lớp học mới về tấn công truyền thống, tấn công hạt nhân và tàu ngầm tên lửa đạn đạo. Cơ quan nghiên cứu quốc hội Mỹ cho biết, trong 15 năm tới, TQ có thể thực địa một lượng tàu ngầm lớn hơn của hải quân Mỹ, trong đó có 75 tàu ngầm trong ủy ban. Ngoài ra, TQ cũng có kế hoạch sử dụng radar tầm xa, vệ tinh, mạng lưới sonar đáy biển và chiến tranh mạng (cyberwarfare) trong các dịch vụ chống tên lửa đạn đạo chống tàu. Điều này cùng với hạm đội tàu ngầm đang được phát triển, được thiết kế suy cho cùng để ngăn chặn việc tiếp cận của Hoa Kỳ với các phần biển quan trọng của Tây Thái Bình Dương.

TQ cũng đang cải thiện khả năng về mìn, máy bay chiến đấu, tên lửa đất đối không (mua máy bay chiến đấu hệ thứ tư của Nga, 1.500 tên lửa đất đối không của Nga) như một phần của chiến lược kiểm soát vùng biển ngoài khơi Đài Loan và Hoa Đông. Hơn nữa, TQ cũng đang phát triển hệ thống cáp quang ngầm và di chuyển khả năng phòng thủ vào sâu miền tây TQ, ra khỏi phạm vi tên lửa hải quân của đối thủ, TQ đang phát triển chiến lược tấn công để tấn công biểu tượng sức mạnh hải quân Mỹ - tàu sân bay và máy bay.

Nhưng TQ sẽ không tấn công một tàu sân bay nào của Mỹ sớm mà nó vẫn còn là một chặng đường dài thử thách về quân sự. Nó vẫn đang phát triển khả năng dọc các chuỗi đảo đầu tiên để hạn chế khả năng tiếp cận của hải quân Mỹ bất cứ khi nào và lúc nào mình muốn.

Đây là bằng chứng cho thấy một TQ lớn hơn ở cả trên bộ và trên biển.

Thẳng hướng vào Đài Loan
Yếu tố quan trọng nhất cho một Trung Hoa lớn hơn là tương lai của Đài Loan.  Bắc Kinh thì thì luôn nói về sự thống nhất và củng cố di sản quốc gia, trong khi Mỹ lại ủng hộ duy trì chế độ dân chủ hiện tại. Đài Loan như một “tàu sân bay không thể chìm” nổi lên giữa biển của TQ. Từ đó, Hoa Kỳ có thể tỏa sức mạnh dọc theo đường biên ven biển TQ. Nếu Đài Loan trở về TQ đại lục,  hải quân TQ sẽ không chỉ đột nhiên có được một vị trí chiến lược trong chuỗi đảo đầu tiên mà còn có thể tăng cường sức mạnh hải quân ra ngoài ở một mức độ lớn chưa từng có. Chỉ sự hợp nhất lại giữa TQ và Đài Loan mới đánh dấu sự xuất hiện thực sự của một trật tự quân sự đa cực ở Đông Á.

Theo nghiên cứu của RAND 2009, đến 2020, Mỹ sẽ không còn có thể bảo vệ Đài Loan khỏi tầm tấn công của TQ. TQ sẽ đánh bại Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan ngay cả khi Hoa Kỳ có F-22, hai nhóm tấn công tàu sân bay và tiếp tục tấn công vào các căn cứ không quân ở Kadena, Okinawa, Nhật Bản. Báo cáo cũng nhấn mạnh cuộc tấn công bằng không quân. TQ có thể bị mất hàng chục ngàn binh sĩ bằng đường biển và tàu ngầm của Mỹ kiểm soát. Nhưng Đài Loan chỉ cách TQ có 100 dặm trong khi Mỹ phải mất nửa vòng trái đất, có nhiều hạn chế tiếp cận các căn cứ nước ngoài. Chiến lược của TQ được thiết kế để hạn chế việc tiếp cận của Mỹ vào vùng biển nhất định, để cùng hoạt động nhưng cũng có thể để tăng cường sự thống trị với Đài Loan.

TQ đang chuẩn bị bao bọc Đài Loan về cả quân sự và kinh tế. khoảng 30% xuất khẩu của Đài Loan sang TQ, 270 chuyến bay mỗi tuần, 2/3 các công ty Đài Loan đầu tư vào TQ đại lục. Nửa triệu khách du lịch từ đất liền ra đảo mỗi năm, 750.000 người Đài Loan cư trú tại TQ mỗi 6 tháng. Tăng hợp tác có khả năng cao giữa TQ và Đài Loan là cách nói không chắc chắn và cũng sẽ là nòng cốt cho năng lực chính trị của khu vực.  Nếu Mỹ từ bỏ Đài Loan cho Bắc Kinh thì các đồng minh khác của Mỹ ở Thái Bình Dương như Nhật, Hàn, Philippines, Úc và các quốc gia châu Phi sẽ bắt đầu nghi ngờ sức mạnh của các cam kết của Washington. Điều đó có thể thúc đẩy các nước lại gần hơn với TQ và xuất hiện một TQ lớn mạnh hơn một nửa địa cầu. Đây là một lý do tại sao Mỹ và Đài Loan phải xem xét các bất đối xứng để đối phó với TQ về quân sự. Mục đích là không để đánh bại TQ trong một cuộc chiến tranh ở eo biển Đài Loan nhưng làm Bắc Kinh tốn kém.  Mỹ sau đó có thể duy trì uy tín của mình với các đồng minh của mình bằng cách giữ cho Đài Loan độc lập đến khi TQ trở thành một xã hội tự do hơn. Chính quyền tổng thống Obama cũng đã thông báo sẽ bán cho Đài Loan 640 triệu USD vũ khí năm 2010, để đối trọng với TQ tại lục địa Á-Âu nói chung. Và mục tiêu thay đổi nội tại TQ không phải là một giấc mơ sáo rỗng: đã có hàng triệu người từ đại lục sang Đài Loan để thấy tinh thần trong các cuộc nói chuyện chính trị và các tựa sách về lật đổ chính trị trong các hiệu sách. Nhưng điều này cũng có thể phản tác dụng, trong một ý nghĩa về kinh tế và quân sự nào đó, một TQ dân chủ có thể sẽ là một thế lực mạnh hơn mà một TQ đàn áp sẽ trở thành.

Thêm vào đó, hải quân TQ cũng đang tập trung nhiều quyền lực vào biển Nam Trung Hoa, cửa ngõ của TQ với Ấn Độ Dương và tuyến đường vận chuyển dầu khí trên thế giới.  Về ý nghĩa và chiến lược tổng thể, biển Nam Trung Hoa có thể trở thành “Vịnh Ba Tư thứ hai” của thế giới. Các chuyên gia địa chính trị thế kỷ XX đã lưu ý rằng, các quốc gia đã có những “chinh phục vòng quanh thế giới qua đường biển” (circumferential and transmarine expansion) để kiểm soát các vùng biển kế cận. Người Hy Lạp kiểm soát Biển Aegean, La Mã với Địa Trung Hải, Hoa Kỳ với Caribbean – và bây giờ Trung Quốc với Biển Đông. Spykman gọi Caribbean là “Địa Trung Hải của Hoa Kỳ” để tăng phần quan trọng của nó đối với Hoa Kỳ. Biển Nam Trung Hoa có thể trở thành “Địa Trung Hải Á Châu” và là tâm điểm của địa chính trị trong nhiều thập niên sắp đến.

Bất an thay đổi
Tuy nhiên, có một sự mâu thuẫn nằm trong tâm điểm của những cố gắng của TQ khi họ biểu dương lực lượng trong và ngoài Địa Trung Hải Á Châu. Một mặt, TQ dường như muốn ngăn chặn các chiến hạm Hoa Kỳ không cho đến gần các vùng biển duyên hải của họ. Mặt khác, họ vẫn chưa thể bảo vệ các tuyến liên lạc của họ trên biển, điều này sẽ làm bất cứ cuộc tấn công nào vào một chiến hạm Hoa Kỳ là vô ích vì Hoa Kỳ chỉ việc cắt đường tiếp liệu đến TQ bằng cách ngăn cản các tàu TQ ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Vậy tại sao có ý định ngăn chặn mà không định làm? Chuyên gia quốc phòng Jacqueline Newmyer cho rằng, Bắc Kinh có chủ ý tạo nên “một hình ảnh thế lực quá hứa hẹn” cho đến độ mà “họ không phải dùng đến sức mạnh để bảo vệ quyền lợi của họ.” Khoe khoang vũ khí, xây các căn cứ và trạm nghe ngóng ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, viện trợ quân sự cho các quốc gia có duyên hải giữa lãnh thổ TQ và Ấn Độ Dương – không một nước cờ nào trong số này là điều bí mật; tất cả đều là những phô trương sức mạnh có chủ đích. Hay đúng hơn, thay vì đụng độ thẳng với Hoa Kỳ, TQ đang tìm cách ảnh hưởng thái độ của Hoa Kỳ để tránh một cuộc đối đầu.

Tuy thế, cũng có một vài điểm thật nổi bật về những hoạt động của hải quân TQ. Họ đang xây một căn cứ hải quân lớn ở mũi phía Nam đảo Hải Nam, ngay tại tâm điểm của Biển Nam Trung Hoa với cơ sở ngầm dưới đất có thể chứa đến 20 tàu ngầm chạy bằng nguyên tử và điện bởi dầu cặn. Đây là sự thể hiện của vẹn toàn lãnh thổ theo Học Thuyết Monroe đối với những hải phận quốc tế lân cận. Hiện nay hay trong tương lai, có thể TQ không có ý định khai chiến với Hoa Kỳ, nhưng động cơ có thể thay đổi. Thay vào đó tốt hơn là cứ theo dõi năng lực của nhau.

Tình trạng an toàn hiện nay ở mép Âu Á Châu dường như phức tạp hơn nhiều so với những năm sau Thế Chiến Thứ II. Vì vai trò bá chủ của Hoa Kỳ đang giảm và tầm vóc của Hải Quân Hoa Kỳ đang thu nhỏ hay đụng trần, trong khi kinh tế và quân sự của TQ đang tăng trưởng, tính cách đa cực sẽ càng ngày càng định nghĩa các mối quan hệ về sức mạnh ở Châu Á. Hoa Kỳ cung cấp cho Đài Loan 114 hỏa tiễn phòng không Patriot và hàng chục hệ thống liên lạc quân đội tối tân. TQ thì đang xây căn cứ tàu ngầm dưới đất ở Đảo Hải Nam và đang phát triển hỏa tiễn chống tàu. Còn Nhật Bản và Hàn Quốc đang tiếp tục hiện đại hóa các hạm đội của họ. Ấn Độ đang thiết lập một hải quân to lớn. Mỗi quốc gia đều đang tìm cách thay đổi cán quân quyền lực theo ý muốn.

Đó là lý do tại sao sự từ bỏ chính trị quân bằng sức mạnh của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton khi cho đó là tàn tích của quá khứ là không thành thật hoặc lấp liếm. Hiện nay đang có một cuộc thi đua quân sự ở Á Châu và Hoa Kỳ sẽ phải đối diện với sự thật này khi họ giảm lực lượng ở Afghanistan và Iraq. Mặc dù không có một quốc gia Á Châu nào có động cơ gây chiến, cái nguy cơ tính toán sai lầm về cân bằng lực lượng sẽ gia tăng với thời gian cùng với sự bành trướng không và hải quân trong vùng (nếu chỉ nói về TQ và Ấn Độ). Căng thẳng trên đất liền sẽ làm gia tăng căng thẳng trên biển: Việc TQ đang cố gắng lấp những lỗ hổng quyền lực sẽ có ngày đưa TQ đến đụng độ khó chịu, ít nhất là với Ấn Độ và Nga. Những không gian ngày xưa trống vắng đang trở nên chật trội với người, đường xá, ống dẫn dầu, tàu bè – và hỏa tiễn. Năm 1999, chuyên gia ĐH Yale từng cho rằng, Châu Á đang trở thành một miền đất hẹp và đối diện với cơn khủng hoảng “chỗ ở”. Quá trình này chỉ vẫn tiếp tục từ đó đến giờ.

Vì vậy, Hoa Kỳ có thể gìn giữ sự ổn định ở Châu Á, bảo vệ đồng minh và giới hạn sự trỗi dậy của Đại TQ trong khi tránh xung đột với Bắc Kinh? Thế cân bằng trên biển có thể không đủ. Như một viên chức cao cấp Ấn Độ nói với tôi vào đầu năm, các đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ ở Á Châu (như Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore, và Hàn Quốc) muốn Hải Quân và Không Quân Hoa Kỳ hành động “nhịp nhàng” với lực lượng của họ – để Hoa Kỳ sẽ là một phần tử của địa thế và hải thế Châu Á chứ không chỉ là một lực lượng lúc ẩn lúc hiện ở chân trời xa xôi. Có một sự khác biệt rất quan trọng giữa mặc cả với Hoa Kỳ về quyền cơ sở, như người Nhật đã làm gần đây, và ý muốn Hoa Kỳ rút toàn diện lực lượng về nước.

Có một chương trình đang được luân chuyển trong Lầu 5 Góc cho rằng Hoa Kỳ có thể “chống sức mạnh chiến lược TQ… mà không có sự đối đầu quân sự trực tiếp” với một hạm đội chỉ cần 250 chiếc tàu (xuống từ con số 280 hiện nay) và ngân sách cho quốc phòng giảm 15%. Đảo Guam và các quần đảo Caroline, Marshall, Bắc Mariana, và Solomon tất cả đều là lãnh thổ của Hoa Kỳ, liên hiệp Anh với thỏa thuận quân sự với Hoa Kỳ, hoặc các quốc gia độc lập có thể muốn có thỏa thuận tương tự. Oceania sẽ trở nên quan trọng vì nó tương đối gần Đông Á và ở ngoài khu vực mà TQ đang nóng lòng ngăn chặn tàu chiến Hoa Kỳ. Đảo Guam chỉ cách Triều Tiên 4 tiếng bay và hai ngày hải trình từ Đài Loan. Đối với Hoa Kỳ, giữ căn cứ ở Oceania trong tương lai trông có vẻ ít khiêu khích hơn là đóng quân ở Nhật Bản, Nam Hàn, và Philippines.

Căn Cứ Không Quân Andersen ở Guam là một dàn phóng lớn nhất mà từ đó Hoa Kỳ phóng sức mạnh đi mọi nơi. Với 100.000 quả bom và hỏa tiễn và kho chứa 238 triệu lít xăng máy bay, đây là một căn cứ tiếp nhiên liệu lớn nhất của không quân Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Đảo Guam cũng còn là căn cứ của một đội tàu ngầm Hoa Kỳ và nó đang được nâng cấp để trở thành một căn cứ hải quân. Đảo này cùng với Quần đảo Bắc Mariana hầu như nằm giữa Nhật Bản và eo Malacca. Và mỏm tây nam của Oceania gồm có những Quần đảo Ashmore và Cartier thuộc về Úc cùng với vùng biển phía tây của Úc (từ Darwin cho đến Perth) là nơi canh gác từ ở dưới quần đảo Nam Dương về phía Ấn Độ Dương. Vì thế, dưới chương trình Garrett, Hải Quân và Không Quân Hoa Kỳ có thể lợi dụng địa thế của Oceania để tạo nên một “sự hiện diện trong vùng” ở “ngay bên kia chân trời” với biên giới không chính thức của một Đại TQ và những lộ trình chính trên biển Á – Âu.

Củng cố sự hiện diện của không lực và hải lực Hoa Kỳ ở Oceania có thể là một đường lối quân bình giữa chống lại một Đại TQ với bất cứ giá nào và chấp nhận một tương lai mà trong đó hải quân TQ sẽ canh chừng chuỗi đảo đầu tiên. Phương thức này sẽ bảo đảm là TQ sẽ phải rất tốn kém cho mọi hành động xâm lấn quân sự với Đài Loan. Điều này cũng cho phép Hoa Kỳ giảm thiểu những căn cứ cũ trên chuỗi đảo này nhưng cũng để cho máy bay và tàu chiến Hoa Kỳ tiếp tục tuần tiễu trong khu vực.

Chương trình Garrett cũng mô tả sự tăng cường sâu rộng của hoạt động Hải Quân Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, chương trình không có nghĩa là nới rộng các căn cứ hiện tại nhưng nó mong được dựa trên những cơ sở sơ khai trên các quần đảo Andaman, Comoros, Maldives, Mauritius, Réunion, và Seychelles, cùng với những thỏa thuận quân sự với Brunei, Malaysia, và Singapore. Điều này sẽ bảo đảm tuyến đường hàng hải và đường chuyên trở nhiên liệu không bị cản trở khắp Á-Âu. Và vì giảm thiểu sự quan trọng của những căn cứ hiện hữu ở Nhật Bản và Hàn Quốc và đa dạng hóa sự có mặt của Hoa Kỳ chung quanh Oceania, chương trình sẽ giải tỏa các căn cứ chính dễ dàng làm mục tiêu tấn công.

Dù sao ảnh hưởng của Hoa Kỳ vào chuỗi đảo đầu tiên đang bắt đầu bị bẩy ra. Dân chúng địa phương đã trở nên khó chịu với sự hiện diện của quân đội ngoại quốc sống chung với họ. Và sự vươn lên của TQ làm cho Bắc Kinh trở nên vừa đáng sợ vừa hấp dẫn – đó là những cảm nghĩ lẫn lộn mà nó có thể phức tạp hóa mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ với các đồng minh Thái Bình Dương. Thời điểm đã đến. Tình trạng khó khăn trong quan hệ Hoa Kỳ-Nhật Bản hiện nay, xuất phát từ chính phủ Hatoyama thiếu kinh nghiệm muốn viết lại luật lệ về quan hệ song phương có lợi cho họ trong khi đang đàm phán về phát triển quan hệ mật thiết hơn với TQ, đáng lẽ đã xảy ra cách đây vài năm. Cương vị vô cùng tối cao của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương là một di sản lỗi thời từ Thế Chiến Thứ II, nó là kết quả của sự tàn phá mà TQ, Nhật Bản, và Phillippines đã chịu đựng trong cuộc xung đột. Tương tự, sự hiện diện của Hoa Kỳ trên bán đảo Triều Tiên, một sản phẩm của một cuộc chiến đã kết thúc hơn nửa thế kỷ, cũng không thể kéo dài vô tận.

Một Đại TQ có thể đang trổi lên ở Trung Á, trên Ấn Độ Dương, ở Đông Nam Á, và ở miền tây Thái Bình Dương về phương diện chính trị, kinh tế, hay quân sự. Nhưng ngay ở ngoài đất nước này là những chiến hạm của Hoa Kỳ, chúng có thể xuất phát từ đại bản doanh ở Oceania và hợp tác với các lực lượng hải quân của Ấn Độ, Nhật Bản, và những nước dân chủ khác. Và theo thời gian, khi sự tự tin của TQ gia tăng, hải quân của họ có thể phát triển một cách tiếp cận bớt hung hăng bảo vệ lãnh thổ để tự nó được đưa đẩy vào liên minh hải quân trong vùng lớn hơn.

Trong khi đó, cần phải nhắc lại điều mà chuyên gia chính trị Robert Ross đã chỉ ra hồi năm 1999. Về quân sự, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và TQ sẽ ổn định hơn so với mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô ngày xưa. Đó là nhờ vào địa lý đặc biệt của Đông Á. Trong thời Chiến Tranh Lạnh, Hải Quân Hoa Kỳ một mình không đủ để kiềm chế Liên Xô và cần phải giữ một lực lượng lục quân quan trọng ở Âu Châu. Nhưng sẽ không bao giờ cần phải có một lực lượng lục quân như thế ở chung quanh rìa Á-Âu, vì ngay cả khi sự hiện diện của lực lượng lục quân Hoa Kỳ chung quanh biên giới với Đại TQ có giảm thiểu, Hải Quân Hoa Kỳ sẽ tiếp tục mạnh hơn hải quân TQ.

Tuy vậy,sức mạnh kinh tế và quân sự đang lên của TQ sẽ làm tệ thêm những căng thẳng giữa Hoa Kỳ và TQ. Để nhắc lại lời của Mearsheimer: Hoa Kỳ, bá chủ của Tây Bán Cầu, sẽ cố gắng không để TQ trở thành bá chủ của hầu hết Đông Bán Cầu. Điều này có thể là dấu hiệu của một tấn tuồng thời nay.

By Lavender

Bài này mình tìm thấy trong 1 file doc lưu trong laptop. Không đề nguồn cũng không dẫn link.

No comments:

Post a Comment