Bài đăng trên tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số tháng 9/2019, trang 34-47.
The competition level among Vietnamese commercial banks
after M&A in the period of 2005- 2017
Minh
Ha Luong, MSc.- Banking Academy
Ngoc
Phuong To- Banking Academy
Ngoc
Bich Nguyen- Banking Academy
Tam
Thi Minh Nguyen- Banking Academy
Trang
Vu Thu Le- Banking Academy
Abstract
Four years after completing Project 254 "Restructuring
the system of credit institutions in the period of 2011 - 2015", the
banking sector of Vietnam has changed remarkably through a series of mergers
and acquisitions (M&A). However, the change in the number of Vietnamese
commercial banks also impacted on the competitiveness in the banking sector, so
the access of commercial banks’ performances in the post-merger period is
extremely important. The objective of the article is to analyze the competitive
situation of Vietnamese commercial banks before and after the merger, thereby
seeing the level of competition in the banking industry decrease after mergers
through analyzing two indicators HHI and CRk.
Key words: M&A, Vietnamese banks, economic concentration
Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng
thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017
Trên thế giới, hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) các ngân
hàng thương mại (NHTM) là xu hướng phổ biến nhằm cải tổ hệ thống NHTM, tăng
cường tính cạnh tranh và khai thác các lợi thế kinh tế. Trong bài viết này,
nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp đo lường mức độ tập trung thông qua chỉ
số CRk và HHI của 35 NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017 nhằm đưa ra đánh giá về
cấu trúc thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng dưới tác động của
M&A. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra chỉ số tập trung kinh tế HHI có xu hướng
tăng sau mỗi thương vụ sáp nhập ngân hàng, thể hiện tính cạnh tranh giảm do
M&A. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh vẫn ở khoảng chấp nhận được do các ngân
hàng sáp nhập đều có quy mô không lớn so với toàn hệ thống và chỉ số CRk vẫn
thể hiện sự tập trung ở mức trung bình.
Từ khóa: tập trung kinh tế, M&A, ngân hàng, Việt Nam
1. Khái quát ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2005- 2017
Trong suốt giai đoạn 2005- 2017, nền
kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, đặc biệt là năm 2008 do sự ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mà nền kinh tế Việt Nam có xu hướng đi xuống
cho tới năm 2013 mới có sự khởi sắc. Tuy nhiên, nhìn chung, Việt Nam đã tạo ra được
một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, các quan hệ kinh tế đối
ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo
ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn.
Theo đó ngành ngân hàng trong giai
đoạn này cũng có nhiều sự thay đổi lớn, đặc điểm của giai đoạn này thể hiện rõ
nét qua ba đặc trưng nổi bật: tăng trưởng nóng, suy thoái do khủng hoảng và dần
đi vào ổn định. Đặc biệt, với sự ra đời của Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các
tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015" (sau đây gọi tắt là Đề án 254),
hoạt động của các NHTM chịu sự tác động mạnh mẽ. Vì vậy, bài viết sẽ tập trung
vào 2 giai đoạn chính: (1) Giai đoạn 2005- 2011: Giai đoạn trước khi thực hiện
Đề án 254; (2) Giai đoạn 2012- 2017: Giai đoạn trong và sau khi thực hiện Đề án
254.
Trong khoảng từ năm 2005 đến 2011,
dư nợ cho vay kinh doanh, đầu tư bất động sản chiếm tỷ trọng lớn trên tổng dư
nợ. Đặc biệt trong năm 2007, tăng trưởng tín dụng trở nên quá nóng khi đạt tốc
độ tăng 54% do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế tăng cao, trong đó bao gồm cả
nhu cầu vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản. Từ năm 2012- 2017, tăng trưởng
dư nợ tín dụng tuy không mạnh mẽ như giai đoạn trước nhưng ổn định và đều đặn
hơn.
Hình
1. Tăng trưởng dư nợ tín dụng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017
Đơn vị: nghìn tỷ đồng, %
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN 2005 - 2017.
Cùng năm 2007, mức tăng trưởng huy
động vốn của toàn ngành Ngân hàng đạt 47,64%- tốc độ tăng mạnh nhất so với
những năm trước đó. Đến năm 2010, tổng huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống
ngân hàng đã đạt 2.321.973 tỷ đồng, tăng 36,24% so với năm 2009, đây là mức
tăng khả quan sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Giai đoạn 2012- 2017,
tăng trưởng huy động vốn ở mức ổn định, chỉ trong 2 năm 2014 và 2015 tốc độ
tăng trưởng huy động vốn chững lại do lãi suất huy động được điều chỉnh xuống
mức thấp so với các kênh sinh lời khác.
Hình
2. Tăng trưởng huy động vốn các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017
Đơn vị: nghìn tỷ đồng, %
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN.
Bên cạnh hai hoạt động chính của các
NHTM là huy động vốn và tín dụng thì các hoạt động khác như bảo hiểm hay cung
cấp các dịch vụ thanh toán cũng từng bước được phát triển qua các năm.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết về M&A và
cạnh tranh trong các NHTM Việt Nam
Trên thế giới, hoạt động mua bán sáp
nhập các NHTM trong ngành tài chính- ngân hàng là xu hướng phổ biến nhằm cải tổ
hệ thống NHTM, tăng cường tính cạnh tranh và khai thác các lợi thế kinh tế. Bên
cạnh đó, hoạt động này còn đem đến những kết quả khả quan khác như gia tăng lợi
nhuận, tinh giản bộ máy hoạt động, tiết kiệm chi phí xâm nhập thị trường hay
giải cứu các NHTM bên bờ vực phá sản. Tại Việt Nam, từ năm 2006, khi Luật Doanh
nghiệp 2005 có hiệu lực và đi vào đời sống, hoạt động M&A NHTM tại Việt Nam
đã bước đầu phát triển cả về số lượng và giá trị, theo đó các nghiên cứu dưới
đây về M&A trong lĩnh vực ngân hàng được chia thành 2 hướng: Hướng thứ nhất
đưa ra những nhân tố tác động tới M&A; và hướng thứ hai chỉ ra sự ảnh hưởng
của hoạt động M&A đến các yếu tố bên trong các ngân hàng cũng như các chỉ số
của thị trường kinh tế.
Hướng thứ nhất phải kể đến các
nghiên cứu của Ngô Đức Huyền Ngân (2009), Shipra Jindal (2008) và Vương Thị
Minh Đức (2018). Nghiên cứu của Jindal (2008) đã chỉ ra lý do tại sao M&A
lại đóng vai trò quan trọng nhìn từ góc độ của công ty hoặc ngân hàng. Ngô Đức
Huyền Ngân (2009) đã phân tích thực trạng hoạt động M&A của hệ thống ngân
hàng Việt Nam, điểm mạnh, điểm yếu cũng như động cơ sáp nhập của các ngân hàng
và đề xuất các giải pháp giúp định hướng các NHTM trong hoạt động M&A của
các ngân hàng Việt Nam. Vương Thị Minh Đức (2018) đánh giá ưu điểm và những vấn
đề còn tồn tại, rút ra được những đặc điểm, nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
M&A ngân hàng tại Việt Nam, qua đó gợi ý một số giải pháp phát triển hoạt
động M&A trong ngành ngân hàng tại Việt Nam.
Hướng nghiên cứu thứ hai đã có nhiều
đánh giá về tác động của hoạt động M&A trong ngành ngân hàng tới mức độ
cạnh tranh và các yếu tố khác. Nghiên cứu của Le Hai Trung (2014) đã chỉ ra
M&A là một trong những nhân tố chính làm cải thiện mức độ cạnh tranh các
ngân hàng nội địa. Cùng mục đích đưa ra đánh giá về cấu trúc thị trường cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng, nghiên cứu của Nguyễn Thế Bính (2015) sử dụng
phương pháp đo lường mức độ tập trung thông qua chỉ số CRk và HHI. Đó là mức độ
tập trung thị trường trong hệ thống có xu hướng giảm trong cả 03 tiêu chí: Tổng
tài sản, huy động vốn và cho vay của hệ thống NHTM Việt Nam. Với mục đích phân
tích tác động của M&A tới các yếu tố khác, nhóm tác giả Vuong Quan Hoang,
Tran Tri Dung và Nguyen Thi Chau Ha (2009) đã kết hợp các nguồn dữ liệu từ
phỏng vấn quản lý tới báo cáo tài chính hay thông cáo báo chí để phân tích các
tác động của M&A tại Việt Nam thời kỳ đổi mới tới. Nghiên cứu của Phan Quan
Viet (2014) đã nghiên cứu hoạt động M&A ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2011 và
phân tích các thành tựu và tác động của các thương vụ M&A đến thị trường
kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu của nhóm tác giả Hoang Thi Thanh Hang, Phan Dien
Vy, Jay Bandaralage (2016) đã chỉ ra tác động của M&A đối với hệ thống NHTM
Việt Nam là tích cực; sau M&A, mức độ tập trung kinh tế chỉ ở mức trung
bình và mức độ cạnh tranh cao. Tuy nhiên các chỉ số tập trung trong bài không
thể phản ánh toàn bộ sự ảnh hưởng của một nhóm ngân hàng trên thị trường.
Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả
Nguyễn Ngọc Lý, Trần Văn Quyết, Dương Thanh Tình (2013), được thực hiện dựa
trên các số liệu thu thập được từ các báo cáo tài chính của các NHTM, đã phân
tích các vấn đề cần lưu ý và đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian tới từ thương vụ sáp nhập đầu
tiên theo chủ trương tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của NHNN. Nghiên cứu của
Lương Minh Hà, Nguyễn Minh Chi, Ngô Trần Vân Khanh (2018) đã bổ sung thêm kiến
thức về hoạt động M&A nói chung tại Việt Nam khi đánh giá, phân tích cả
những nhân tố tác động tới M&A và những nhân tố bị ảnh hưởng bởi M&A.
Tổng quan các nghiên cứu trên cho
thấy, nghiên cứu về hoạt động M&A trong lĩnh vực Tài chính- Ngân hàng tại
Việt Nam là không quá mới mẻ, tuy nhiên các tác giả nhận thấy rằng đa phần các
nghiên cứu về cạnh tranh trong ngành ngân hàng và M&A đều thể hiện được mối
quan hệ qua lại của hoạt động M&A đến hoạt động của các ngân hàng thời kỳ
hậu sáp nhập nhưng chưa khẳng định rõ hệ quả của hoạt động này đến mức độ cạnh
tranh trong ngành cũng như các mô tả chi tiết hơn xung quanh các tác động đó
đến tính cạnh tranh giữa các NHTM.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để
khảo sát diễn biến chỉ số tập trung kinh tế sau các thương vụ M&A trong
lĩnh vực NHTM tại Việt Nam, nghiên cứu chủ yếu dựa trên dữ liệu thứ cấp từ
trang thông tin điện tử của NHNN và các báo cáo thường niên của các NHTM Việt
Nam trong giai đoạn nghiên cứu (2005- 2017). Đây là khoảng thời gian mở cửa nền
kinh tế với hàng loạt bộ Luật đã ra đời, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho
doanh nghiệp nói chung, ngành ngân hàng nói riêng có cơ sở tiến hành M&A,
như Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Cạnh tranh 2004, Luật Chứng khoán 2006... Các
thông tin được sử dụng là ba chỉ tiêu thể hiện đặc trưng hoạt động kinh doanh
của các NHTM, đó là: tổng tài sản, dư nợ tín dụng và tiền gửi khách hàng.
Về
phương pháp đo lường, nhóm sử dụng chỉ số HHI (Herfindahl-Hirschman Index) và
CRk (Concentration Ratio). Hai chỉ số này được sử dụng phổ biến nhất trong việc
đo lường mức độ tập trung thị trường trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực
ngân hàng nói riêng (Le Hai Trung, 2014; Nguyễn Thế Bính, 2015; Hoang Thi Thanh
Hang và cộng sự, 2016).
2.2.1. Chỉ
số CRk
Chỉ số CRk được dùng để đo lường mức
độ tích tụ thị trường, cho biết liệu thị phần có rơi vào một nhóm ngân hàng
không. Trong ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay, tuy có nhóm 4 ngân hàng lớn
nhất về quy mô tổng tài sản gồm có Agribank, BIDV, Vietinbank và Vietcombank,
nhưng đặc thù của Agribank là doanh nghiệp Nhà nước tổ chức theo mô hình công
ty TNHH Một thành viên, với 100% số vốn thuộc sở hữu Nhà nước, và chưa thực
hiện cổ phần hóa trong giai đoạn mà nhóm thực hiện nghiên cứu nên khi tính toán
chỉ số CRk, nhóm sẽ không xét đến Agribank trong mẫu. Do đó, trong nghiên cứu
này, nhóm sử dụng CR3, để kiểm tra mức độ tập trung trên ba khía cạnh tổng tài
sản, huy động vốn và cho vay của các ngân hàng qua các năm.
Bảng 1. Thống kê về tỷ trọng của 3
NHTM thuộc mẫu nghiên cứu giai đoạn 2005- 2017
Năm
|
Tổng tài sản
|
Cho vay
|
Huy động vốn
|
|||
Tương
đối
(%)
|
Tuyệt
đối
(triệu
đồng)
|
Tương
đối
(%)
|
Tuyệt
đối
(triệu
đồng)
|
Tương
đối
(%)
|
Tuyệt
đối
(triệu
đồng)
|
|
2005
|
72,30%
|
373.625.709
|
76,81%
|
273.373.778
|
75,75%
|
279.725.897
|
2006
|
63,49%
|
460.735.158
|
71,57%
|
335.891.086
|
69,51%
|
317.146.479
|
2007
|
50,66%
|
568.032.155
|
58,45%
|
403.072.326
|
56,34%
|
389.350.609
|
2008
|
48,85%
|
662.199.555
|
56,21%
|
439.616.893
|
53,20%
|
442.098.432
|
2009
|
42,19%
|
795.713.178
|
50,26%
|
542.948.497
|
46,66%
|
504.726.555
|
2010
|
38,11%
|
1.041.619.762
|
47,46%
|
714.619.647
|
44,12%
|
655.375.289
|
2011
|
36,40%
|
1.232.897.811
|
48,90%
|
882.088.192
|
42,24%
|
724.660.428
|
2012
|
40,80%
|
1.402.803.136
|
47,18%
|
983.816.228
|
41,87%
|
877.546.566
|
2013
|
42,13%
|
1.593.748.531
|
47,16%
|
1.077.014.225
|
40,92%
|
1.035.644.731
|
2014
|
43,40%
|
1.888.577.751
|
48,18%
|
1.288.021.030
|
41,89%
|
1.286.856.543
|
2015
|
44,83%
|
2.304.385.067
|
48,52%
|
1.584.385.457
|
42,53%
|
1.558.705.673
|
2016
|
46,12%
|
2.742.883.228
|
49,16%
|
1.919.719.072
|
45,66%
|
1.971.533.188
|
2017
|
46,67%
|
3.332.637.968
|
49,55%
|
2.321.931.257
|
46,73%
|
2.321.440.228
|
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp.
Cách thức xác định chỉ số này như sau (Westman, 2005):
Trong đó Si là thị phần của doanh nghiệp lớn thứ
i trong ngành; n = 3 hoặc 5 tùy trường hợp cần xác định CR3 hay CR5.
Dựa vào các mức độ tập trung, có thể phân loại thị trường
thành các dạng sau:
- Cạnh tranh hoàn hảo, với tỷ lệ tập trung rất nhỏ.
- Cạnh tranh một cách tương đối, CR3< 65%, mức độ tập trung
trung bình.
- Độc quyền nhóm (Oligopoly) hoặc có
vị trí thống lĩnh thị trường, CR3> 65%, mức độ tập trung cao.
- Độc quyền, CR1 xấp xỉ 100%.
2.2.2. Chỉ
số HHI
Chỉ số HHI được sử dụng để đo lường
quy mô của doanh nghiệp trong mối tương quan với ngành. Đây là một chỉ báo về
mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành, thường được tính bằng tổng
bình phương thị phần của các doanh nghiệp và có giá trị từ 0 đến 10.000. Nhóm
chọn ra 35 NHTMCP có đầy đủ dữ liệu từ năm 2005 đến năm 2017 về cả ba chỉ tiêu
tổng tài sản, huy động vốn và tín dụng.
Bảng 2. 35 NHTMCP thuộc mẫu nghiên
cứu
Á Châu (ACB)
|
Nhà Hà Nội
|
MHD
|
Sacombank
|
Bản Việt
|
An Bình
|
HDBank
|
Nam Á
|
SHB
|
Vietcombank
|
Bảo Việt
|
Kiên Long
|
Quốc dân
|
Phương Nam
|
Vietinbank
|
BIDV
|
Bưu điện Liên Việt
|
Xăng dầu Petrolimex
|
Techcombank
|
VIB
|
Đại Á
|
MSB
|
Phương Đông
|
Tiên Phong
|
Việt Nam Thương Tín
|
SeaBank
|
MB
|
SCB
|
Việt Nam Tín Nghĩa
|
VPbank
|
Eximbank
|
MHB
|
Saigonbank
|
Việt Á
|
Phương Tây
|
Trong giai đoạn 2005- 2017, tỉ trọng
của 35 NHTMCP này ở cả ba chỉ tiêu tổng tài sản, tổng mức tín dụng và tổng mức
huy động vốn toàn ngành dao động trong khoảng từ 65%- 80%. Cụ thể, năm 2005
chiếm 66,92% tổng tài sản ngành ngân hàng; 67,4% tổng mức tín dụng toàn ngành
và 74,48% tổng mức huy động vốn toàn ngành. Như vậy, mẫu 35 NHTM có tính đại
diện cho toàn ngành, đủ cơ sở cho nhóm nghiên cứu đưa ra nhận xét, kết luận.
Trong bài viết, nhóm chỉ tập trung vào các NHTMCP, không bao gồm chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và NHTM Nhà nước.
Bảng 3. Thống
kê về tỷ trọng của 35 NHTM thuộc mẫu nghiên cứu giai đoạn 2005- 2017
Năm
|
Tổng
tài sản
|
Cho vay
|
Huy động vốn
|
|||
Tương
đối
(%)
|
Tuyệt
đối
(triệu
đồng)
|
Tương
đối
(%)
|
Tuyệt
đối
(triệu
đồng)
|
Tương
đối
(%)
|
Tuyệt
đối
(triệu
đồng)
|
|
2005
|
66,92%
|
516.760.444
|
67,40%
|
355.908.514
|
74,48%
|
369.261.254
|
2006
|
68,07%
|
725.646.844
|
68,96%
|
469.335.221
|
73,08%
|
456.237.130
|
2007
|
71,69%
|
1.121.198.264
|
71,45%
|
689.593.938
|
73,66%
|
691.014.997
|
2008
|
71,42%
|
1.355.569.659
|
69,45%
|
782.139.042
|
71,19%
|
830.944.686
|
2009
|
74,70%
|
1.886.127.679
|
70,24%
|
1.080.223.502
|
74,08%
|
1.081.798.054
|
2010
|
79,58%
|
2.733.515.807
|
73,38%
|
1.505.739.030
|
76,01%
|
1.485.412.554
|
2011
|
80,95%
|
3.387.402.885
|
75,46%
|
1.803.940.516
|
77,53%
|
1.715.431.917
|
2012
|
80,77%
|
3.438.228.450
|
76,64%
|
2.085.339.141
|
77,13%
|
2.095.695.648
|
2013
|
80,06%
|
3.783.202.151
|
79,41%
|
2.283.551.548
|
77,12%
|
2.530.798.753
|
2014
|
81,29%
|
4.351.580.113
|
78,21%
|
2.673.524.938
|
78,58%
|
3.071.850.082
|
2015
|
83,76%
|
5.139.731.747
|
80,88%
|
3.265.621.097
|
79,64%
|
3.664.951.828
|
2016
|
83,96%
|
5.947.657.847
|
81,53%
|
3.904.909.719
|
80,30%
|
4.318.209.066
|
2017
|
85,17%
|
7.140.908.948
|
82,64%
|
4.686.289.107
|
82,26%
|
4.967.927.375
|
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp.
Cho vay và huy động vốn là hai
nghiệp vụ kinh doanh chính của các NHTM. Trong đó, cung cấp tín dụng là hoạt
động đặc trưng quan trọng nhất, mang đến lợi nhuận lớn hàng đầu cho các NHTM.
Bên cạnh đó, nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho
ngân hàng nhưng lại là nghiệp vụ giải quyết yếu tố đầu vào cho ngân hàng. Tổng
tài sản là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ cạnh tranh giữa
các NHTM trên thị trường, vì tổng tài sản gắn liền với ưu thế thị phần, thị
phần càng lớn thì lợi thế cạnh tranh càng lớn. Như vậy, việc chọn ba chỉ tiêu
trên từ 35 NHTMCP là phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của nhóm.
Cách tính chỉ số HHI như sau:
Trong đó n là tổng số doanh nghiệp và Si là thị
phần của doanh nghiệp thứ i trong ngành.
Theo Horizontal Merger
Guidelines, ban hành bởi Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Ủy ban Thương mại Liên bang
Mỹ, các cơ quan quản lý cạnh tranh thường phân loại các thị trường theo cơ sở
sau: (i) HHI< 1.000: Thị trường không
mang tính tập trung; (ii)
1.000≤ HHI≤ 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ vừa
phải; (iii)
HHI> 1.800: Thị trường tập trung ở mức
độ cao.
Ưu điểm chủ yếu của chỉ số HHI so với các cách đo khác
(chẳng hạn như tỷ lệ tập trung- CR)
là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối với các doanh nghiệp lớn.
Chỉ số HHI tăng làm mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng
giảm, ngược lại, khi chỉ số HHI giảm nghĩa là mức độ cạnh tranh giữa các ngân
hàng tăng.
Thông qua
tính toán nhóm nghiên cứu thấy rằng, chỉ số HHI ở các chỉ tiêu Tổng tài sản, Tín
dụng và Huy động vốn đều có xu hướng giảm trước năm 2011 và tăng lên từ năm
2012 trở đi (Hình 3). Điều này cho thấy mức độ cạnh tranh của các NHTM trước
năm 2011 cao hơn so với các năm sau đó. Diễn biến của chỉ số CR3 trong giai
đoạn này tương tự như chỉ số HHI: Đồ thị của chỉ số CR3 (Hình 4) cũng cho thấy
một sự sụt giảm liên tục trong giai đoạn 2005- 2011 và bắt đầu ổn định hơn
trong giai đoạn 2012- 2017. Hai chỉ số này bổ sung cho nhau cùng thể hiện mức
độ cạnh tranh của các NHTM tại Việt Nam có xu hướng giảm khi số lượng ngân hàng
giảm do hoạt động M&A. Điều này đồng nghĩa với việc hoạt động M&A có
tác động làm tăng mức độ tập trung kinh tế trong ngành Ngân hàng, kết quả này
giúp nhóm có cơ sở thực tế để đề xuất những kiến nghị trong phần tiếp theo.
Trong
giai đoạn trước năm 2004, quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt
được những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên do ảnh hưởng của kinh tế trong nước, các
ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ từ doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ nên các ngân hàng, đặc biệt là NHTMCP nông thôn mất khả năng thanh
toán, gây ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng trong nước. Vì vậy, nhiều vụ sáp
nhập đã diễn ra (NHTMCP Phương Nam đã M&A hàng loạt các NHTM khác như
NHTMCP nông thôn Ðồng Tháp năm 1997, Ðại Nam năm 1999, Châu Phú năm 2001, Cái
Sắn năm 2003; NHTMCP Ðông Á tiến hành M&A NHTMCP Tứ Giác Long Xuyên năm
2001 và NHTMCP Nông thôn Tân Hiệp năm 2004; Sacombank M&A Ngân hàng Thạnh
Thắng năm 2002; NHTMCP Phương Ðông M&A với NHTMCP nông thôn Tây Ðô năm
2003…) để tránh ảnh hưởng dây chuyền không tốt tới cả hệ thống cũng như củng cố
niềm tin của người dân.
Đề án 254 “Tái cơ cấu các TCTD”
chính thức được phê duyệt vào năm 2012, tạo ra nhiều thay đổi lớn trên thị
trường tài chính. Các vụ sáp nhập ngân hàng làm giảm số lượng ngân hàng trên
thị trường dẫn đến sự biến động của chỉ số HHI và CR3 qua từng năm. Nhóm nghiên
cứu tập trung làm rõ sự thay đổi đó bằng việc phân tích hai giai đoạn chính:
(1) Giai đoạn 2005- 2010; (2) Giai đoạn 2011- 2017.
3.1. Mức độ cạnh tranh qua chỉ số HHI
Giai đoạn 2005 - 2010, chỉ số HHI ở
cả 3 chỉ tiêu Tổng tài sản, Huy động vốn và Tín dụng đều có xu hướng giảm. Đây
là giai đoạn bùng nổ mạnh về số lượng các NHTM được thành lập. Số lượng ngân
hàng mới thành lập tăng, khiến cho thị phần của các ngân hàng thành phần giảm,
chỉ số HHI trong giai đoạn này giảm. Đặc biệt trong năm 2008, trên thị trường
ghi nhận có 43 ngân hàng thương mại, tăng so với các năm trước đó (Bảng 4). Tuy
nhiên, trong giai đoạn này, thị trường ngân hàng không ghi nhận một thương vụ
mua bán sáp nhập nào, do vậy những thay đổi của chỉ số HHI chủ yếu do sự góp
vốn của các công ty nước ngoài và trong nước (nhất là sau khi Việt Nam gia nhập
WTO năm 2006) và do số lượng ngân hàng mới tăng.
Bảng
4. Số lượng ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017
Năm
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
2016
|
2017
|
Số lượng
|
42
|
39
|
40
|
43
|
42
|
42
|
40
|
39
|
38
|
38
|
35
|
35
|
35
|
(*) Ghi chú: bao gồm
NHTM quốc doanh và NHTMCP, không bao gồm các chi nhánh NH nước ngoài tại Việt
Nam.
2006: 3 NHTMCP dừng hoạt động
2007: thành lập NHTMCP Việt Nam Thương Tín
2008: thành lập 3 NHTM (Lien Viet Bank, Bao Viet Bank, Tien
Phong Bank)
2009: 1 NHTMCP dừng hoạt động (theo Báo cáo thường niên của
SBV)
2011: 2 NH bị sáp nhập
2012: 1 NH bị sáp nhập
2013: 1 NH bị sáp nhập
2015: 3 NH bị sáp nhập
Bảng 5. Các thương vụ sáp nhập trong ngành ngân hàng giai
đoạn 2005- 2017
Năm
|
Các
bên tham gia
|
Ngân
hàng sau sáp nhập
|
Số
lượng NHTM toàn hệ thống
|
2011
|
- NHTMCP Liên Việt
- Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện VNPT
|
- NHTMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank)
|
42
|
2011
|
- NHTMCP Đệ Nhất (Ficombank)
- NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank)
- NHTMCP Sài Gòn (SCB)
|
- NHTMCP Sài Gòn (SCB)
|
40
|
2012
|
- NHTMCP Nhà Hà Nội (Habubank)
- NHTMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB)
|
- NHTMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB)
|
39
|
2013
|
- NHTMCP Đại Tín (TrustBank)
- Tập đoàn Thiên Thanh
|
- NHTMCP Xây dựng (CB)
|
39
|
2013
|
- NHTMCP Đại Á
- NHTMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (HDBank)
- Công ty tài chính Việt Societe Generale (SGVF)
|
- NHTMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (HDBank)
|
38
|
2013
|
- NHTMCP Phương Tây (WesternBank)
- Công ty tài chính dầu khí Việt Nam (PVFC)
|
- NHTMCP Đại chúng Việt Nam (PvcomBank)
|
38
|
2015
|
- NHTMCP Phát triển Mê Kông (MDB)
- NHTMCP Hàng hải Việt Nam (Maritimebank)
|
- NHTMCP Hàng hải Việt Nam (Maritimebank)
|
37
|
2015
|
- NHTMCP Phương Nam (Southern Bank)
- NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
|
- NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
|
36
|
2015
|
- NHTMCP Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB)
- NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
|
- NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
|
35
|
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp.
Hình 3. Diễn biến chỉ số HHI giai đoạn 2005- 2017
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
Năm 2011, Đề án 254 bước vào thời kì
đầu thực hiện, số lượng ngân hàng đã giảm đáng kể (Bảng 4) bắt đầu từ thương vụ
sáp nhập đầu tiên giữa NHTMCP Đệ Nhất (Ficombank), NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank) và NHTMCP Sài Gòn (SCB). Ở giai đoạn này, chỉ số HHI về mức độ
cạnh tranh giữa các ngân hàng trên thị trường thấp hơn với giai đoạn trước
(2005 - 2011), nghĩa là mức độ cạnh tranh cao hơn giai đoạn trước (HHI trung
bình giai đoạn 2005- 2011: 1314; HHI trung bình giai đoạn 2012- 2017: 989; HHI
năm 2012 giảm 53,42% so với HHI năm 2005), nhưng nhìn chung vẫn ở mức cạnh
tranh cao (100 ≤ HHI ≤ 1000). Quy định nghiêm ngặt về việc thành lập và duy trì
hoạt động của các tổ chức tín dụng của Đề án 254 làm cho số lượng ngân hàng mới
giảm so với thời kỳ trước, kết hợp với những thương vụ sáp nhập và mua lại ngân
hàng (SHB mua lại Habubank - 2012, HDBank mua lại Đại Á - 2013, ...) dẫn đến
thị phần của các ngân hàng tăng, khiến chỉ số HHI tăng nhẹ, mức độ cạnh tranh
giảm nhẹ theo thời gian. Tuy nhiên, sau lần giảm mạnh vào năm 2006 (12,21%) và
2007 (giảm 28,32%), mức độ tăng ở chỉ số HHI của những lần này không quá cao
(tăng từ 1,8 - 3% qua các năm), vì vậy, mức độ cạnh tranh vẫn cao hơn so với
thời kì 2005- 2011 (HHI trung bình giai đoạn 2005- 2011: 1314; HHI trung bình
giai đoạn 2012- 2017: 989) (So với năm 2005, chỉ số HHI năm 2012 ở chỉ tiêu
Tổng tài sản giảm còn 1051 đơn vị, ở chỉ tiêu Tín dụng giảm xuống mức 1089 và ở
chỉ tiêu Huy động vốn giảm còn 1206).
Trong năm 2012, vụ sáp nhập duy nhất
giữa NHTMCP Nhà Hà Nội và NHTMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) đã ảnh hưởng phần nào đến
thị phần của SHB (NH mua). Cụ thể, theo Hình 3, chỉ số HHI của chỉ tiêu tổng
tài sản đã bắt đầu tăng trở lại: Năm 2012 tăng thêm 11% so với năm 2011. Tuy
vậy, về chỉ tiêu tín dụng và huy động vốn, chỉ số HHI vẫn giảm nhẹ ở năm 2012.
Sang đến năm 2013, ngành ngân hàng
tiếp tục “chứng kiến” ba thương vụ sáp nhập, hợp nhất của 7 doanh nghiệp:
NHTMCP Đại Á hợp nhất với Cty tài chính dầu khí Việt Nam thành NHTMCP Đại
Chúng, NHTMCP Đại Á và Công ty tài chính Việt Societe Generale - SGVF sáp nhập
vào HDBank, NHTMCP Đại Tín và Tập đoàn Thiên Thanh hợp tác thành lập NHTMCP Xây
dựng (CB). Các thương vụ này đều ảnh hưởng đến cả 3 tiêu chí, khiến thị phần ở
cả 3 tiêu chí của 3 ngân hàng sau mua bán sáp nhập tăng lên, còn thị phần của
các ngân hàng khác cũng bị ảnh hưởng. Do đó, chỉ số HHI trong năm 2013 ở chỉ
tiêu tổng tài sản và chỉ tiêu tín dụng tiếp tục tăng. Tuy nhiên, chỉ số HHI ở
chỉ tiêu huy động vốn vẫn tiếp tục giảm nhẹ. Như vậy, sau 3 thương vụ kể trên,
mức độ cạnh tranh ở 2 chỉ tiêu tổng tài sản và tín dụng giảm nhẹ, đặc biệt là
mức độ cạnh tranh tín dụng đã không còn ở mức cạnh tranh cao, mà giảm xuống mức
cạnh tranh trung bình (1000 ≤ HHI ≤ 1800).
Năm 2014, thị trường không có giao
dịch M&A nào thực sự diễn ra giữa các NHTM. Vì vậy, có thể nói, khoảng thời
gian 2014 này chính là thời gian mà các ảnh hưởng của mua bán, sáp nhập trở nên
rõ ràng hơn. Từ Hình 3, chỉ số HHI ở tất cả các chỉ tiêu đều bắt đầu tăng dần
(so với năm 2012).
Sang đến năm 2015, thị trường ngân
hàng tiếp tục có thêm 3 thương vụ mua bán sáp nhập khác: NHTMCP Phát triển Nhà
đồng bằng sông Cửu Long (MHB) sáp nhập vào BIDV, NHTMCP Phương Nam (Southern
Bank) sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và NHTMCP Phát triển
Mê Kông (MDB) sáp nhập vào NHTMCP Hàng hải Việt Nam (MSB). Sau những thương vụ
này chỉ số HHI ở cả 3 chỉ tiêu vẫn tiếp tục tăng, mức độ cạnh tranh giảm.
Đến năm 2017, tốc độ tăng ở cả 3 chỉ
tiêu đều có phần chững lại. Lý do là vì năm 2015 là năm cuối cùng thực hiện Đề
án 254, vì vậy từ đầu năm, NHNN đã chỉ đạo xử lý và triển khai mạnh mẽ, có
hướng giải quyết, phương án và giải pháp tái cơ cấu, xử lý nợ xấu để đến cuối năm
cơ bản hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, giai đoạn 2016- 2017 cũng là
giai đoạn mà các ngân hàng vừa và nhỏ quyết định mở rộng mạng lưới và dịch vụ
của mình. Nhờ quyết định phát triển mở rộng này mà thị trường có xu hướng cạnh
tranh hơn.
Như vậy, kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng: sau mỗi vụ sáp nhập, chỉ số HHI đều tăng do thương vụ sáp nhập nào cũng
ảnh hưởng đến số lượng ngân hàng (giảm), khiến thị phần của ngân hàng sau sáp
nhập tăng, chỉ số HHI tăng.
3.2. Mức độ cạnh tranh dựa trên chỉ số CR3
Để có cái nhìn chắc chắn hơn về mức
độ cạnh tranh các NHTM qua các năm, nhóm tiến hành nghiên cứu thêm chỉ số CR3
đối với ba NHTM Việt Nam có thị phần lớn nhất là BIDV, Vietinbank và
Vietcombank. Diễn biến chỉ số CR3 qua 13 năm có sự tương đồng so với diễn biến
chỉ số HHI. Đồ thị của chỉ số CR3 cũng cho thấy một sự sụt giảm liên tục trong
giai đoạn 2005- 2010 và bắt đầu ổn định hơn trong giai đoạn 2011- 2017 (Hình
4).
Hình 4. Diễn biến chỉ số CR3 giai đoạn 2005- 2017
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
Nhìn vào Hình 4, ở giai đoạn 2005-
2010, chỉ số CR3 giảm mạnh từ mức tập trung cao xuống thị trường có mức tập
trung trung bình. Ở giai đoạn này, hệ thống NHTM có sự phát triển cả về quy mô
và chất lượng tín dụng. Vì vậy, mức độ cạnh tranh tăng mạnh do sự phát triển
của các ngân hàng vừa và nhỏ khác, “đập tan” thế độc quyền của 3 ngân hàng có
thị phần lớn nhất ở cả 3 tiêu chí (BIDV, VCB, Vietinbank).
Sau hai thương vụ sáp nhập của
NHTMCP Đệ Nhất (Ficombank), NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và NHTMCP
Sài Gòn (SCB); NHTMCP Bưu điện Liên Việt sáp nhập với VNPT năm 2011, tổng tài
sản, tín dụng và huy động vốn của NHTMCP Sài Gòn và NHTMCP Bưu điện Liên Việt
tăng mạnh, nguồn huy động vốn của NH ổn định và dồi dào. Điều này giúp
LienVietBank tăng được sự cạnh tranh so với ngân hàng khác. Từ đó, thị phần của
top 3 ngân hàng bị ảnh hưởng (giảm), chỉ số CR3 trong năm 2011 giảm hẳn xuống
mức < 65%.
Về chỉ tiêu tổng tài sản, sau khi
chạm đáy năm 2011, chỉ số CR3 tăng 12% vào năm 2012. Nguyên do của sự tăng bất
thường này là vì 2011 là năm đầu tiên diễn ra hoạt động mua bán sáp nhập trong
phạm vi ngành ngân hàng nên các chỉ số đều biến động rõ rệt. Tuy nhiên, tại
thời điểm sáp nhập, ngân hàng mới có thể có sự gia tăng rõ rệt về số lượng
khách hàng, nhưng hoạt động kinh doanh của ngân hàng lại chủ yếu dựa vào uy tín
và niềm tin, nên rất nhạy cảm với mọi biến động trên thị trường. Có khách hàng
sẽ tin tưởng quy mô, chất lượng của ngân hàng, nhưng cũng có khách hàng sẽ hoài
nghi về chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngân hàng mới. Điều này có thể dẫn
đến sự sụt giảm số lượng của cả khách hàng hiện hữu và khách hàng tiềm năng các
ngân hàng mới, trong khi đây lại chính là ưu thế của các ngân hàng lớn. Hơn
nữa, trong năm 2012, thị trường ngân hàng chỉ có một vụ sáp nhập của NHTMCP Nhà
Hà Nội (Habubank) vào SHB. Kết quả là, sau khi tăng vọt trở lại vào năm 2012,
chỉ số CR3 bắt đầu ổn định với mức tăng trung bình 3% một năm.
Sang đến năm 2013, thị trường ngân
hàng có 3 vụ sáp nhập: NHTMCP Phương Tây hợp nhất với Công ty tài chính dầu khí
VN thành NHTMCP Đại Chúng Việt Nam, NHTMCP Đại Á và Công ty tài chính Việt
Societe Generale- SGVF sáp nhập vào HDBank, NHTMCP Đại Tín và Tập đoàn Thiên
Thanh hợp tác thành lập NH Xây dựng (CB). Kết quả là, sau khi tăng vọt trở lại
vào năm 2012, chỉ số CR3 tổng tài sản bắt đầu ổn định với mức tăng trung bình
3% một năm. Đối với lĩnh vực tín dụng, chỉ số CR3 còn thay đổi bất thường khi
chỉ số này chạm đáy vào năm 2012, rồi lại tăng lên vào năm 2013, và giảm xuống
vào năm 2014. Về phần huy động vốn, chỉ số CR3 trong giai đoạn này vẫn tiếp tục
giảm nhẹ từ 1- 2% vào năm 2012 và 2013.
Năm 2015
thị trường có 3 vụ sáp nhập: NHTMCP Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu
Long (MHB) sáp nhập vào NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTMCP
Phương Nam (Southern Bank) sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
và NHTMCP Phát triển Mê Kông (MDB) sáp nhập vào NHTMCP Hàng hải Việt Nam
(Maritime Bank). Sau những thương vụ này, chỉ số CR3 ở cả ba chỉ tiêu đều có xu
hướng tăng dần.
Lí giải cho sự tăng dần này là vì,
theo mục tiêu của Đề án 254 thì số lượng ngân hàng sẽ giảm xuống, bù lại, nguồn
vốn được tập trung hơn và ngân hàng sẽ có cơ hội phát triển mạnh hơn. Hơn nữa,
giai đoạn 2013- 2017, nhóm các ngân hàng lớn vẫn tiếp tục phát triển, hoạt động
9 ngân hàng mới sau sáp nhập cũng đã dần đi vào quỹ đạo và kết quả là sự tăng
đều trở lại của chỉ số CR3 qua các năm.
Như vậy, mặc dù mức độ tập trung
tăng, mức độ cạnh tranh giảm so với thời kỳ trước, nhưng về tổng quan, mức độ
tập trung này vẫn dưới 65%, cho thấy thị trường đang cạnh tranh ở mức tương
đối, với mức độ tập trung trung bình.
4. Kết luận
Mặc dù có nhiều cách khác nhau để
phân tích về tính cạnh tranh, HHI và CRk là hai trong số các chỉ tiêu phổ biến nhất.
Không nằm ngoài xu hướng đó, bài viết cũng dựa vào hai chỉ số trên để đánh giá
sự thay đổi mức độ cạnh tranh giữa các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005 – 2017, đặc
biệt là sau mỗi thương vụ sáp nhập các ngân hàng diễn ra. Thông qua tính toán
HHI và CRk đối với tổng tài sản, giá trị vốn huy động từ thị trường và tổng
lượng tín dụng cung ứng ra khu vực doanh nghiệp, dân cư của 35 NHTM Việt Nam
giai đoạn 2005 – 2017, các tác giả tìm thấy bằng chứng chỉ ra rằng hoạt động
M&A có xu hướng khiến mức độ cạnh tranh của các NHTM tại Việt Nam giảm
trong giai đoạn nghiên cứu, nhất là sau khi có Đề án 254 về tái cơ cấu các
TCTD. Tuy thế, mức độ cạnh tranh vẫn trong giới hạn chấp nhận được. Điều này có
thể lý giải nhờ vào số lượng các NHTM hiện đang hoạt động trên thị trường còn
tương đối lớn, nếu so với một số quốc gia trong khu vực chẳng hạn, Malaysia với 20 NHTM. Nhóm nghiên cứu cho rằng, các cơ
quan quản lý, đặc biệt là NHNN và Bộ Công thương cần tăng cường thanh tra giám
sát, kiểm soát hoạt động M&A đảm bảo hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển
lành mạnh, an toàn đúng định hướng. Mặc dù vẫn còn trong mức chấp nhận được về
tập trung kinh tế, nhưng nếu các thương vụ sáp nhập làm giảm số lượng ngân hàng
vẫn tiếp tục, thì mức độ cạnh tranh sẽ giảm tiếp và về lâu dài, tập trung quá
cao có thể làm xói mòn hiệu quả vận hành của cả hệ thống TCTD. Bên cạnh các kết
quả trên, bài viết vẫn còn một số hạn chế xuất phát từ việc chỉ lựa chọn hai
chỉ số để phân tích, dù là hai chỉ số thông dụng nhưng các kết luận của bài sẽ
trở nên có ý nghĩa thống kê hơn nếu có thêm các chỉ số khác hoặc thậm chí là sự
tham gia của các mô hình kinh tế lượng. Đây có thể coi là một gợi mở nghiên cứu
để nhóm tiếp tục triển khai sâu hơn trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Hannan, T. H. (1997). Market share
inequality, the number of competitors, and the HHI: An examination of bank
pricing, Review of Industrial Organization, 12(1), 23-35.
2. Hoang Thi Thanh Hang, Phan Dien Vy,
Jay Bandaralage (2016), Mergers, Acquisitions and Market Concentration in the
Banking Sector: The Case of Vietnam, Asian
Journal of Economics and Empirical Research, 3(1), 49 -58.
3. Huỳnh Thị Hương Thảo (2009), Hoạt
động sáp nhập và mua lại ngân hàng, Tạp
chí Khoa học & Ứng dụng, 10, 39 -41.
4. Le Hai Trung (2014), Market
concentration and competition in Vietnamese banking sector.
5. Lương Minh Hà, Nguyễn Minh Chi, Ngô
Trần Vân Khanh (2018), Đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp sau mua bán sáp
nhập tại Việt Nam 2005-2016, Tạp chí Khoa
học & Đào tạo Ngân hàng, 192, 49 -56.
6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo
thường niên các năm từ 2005 đến 2017.
7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010),
Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010.
8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011),
Dự thảo định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 2011- 2015.
9. Nguyễn Thế Bính (2015), Tập trung
thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, 26(36), 33 – 37.
10. Nguyễn Ngọc Lý, Trần Văn Quyết,
Dương Thanh Tình (2013), Mua bán và sáp nhập (M&A) ngân hàng tại Việt Nam-
những vấn đề đặt ra từ thương vụ sáp nhập ngân hàng TMCP Sài Gòn- Đệ Nhất- Tín
Nghĩa, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 105(05),
137 – 143.
11. Nguyễn Thị Kim Nhung (2017), Hoạt
động tín dụng ngân hàng thực hiện theo đúng định hướng điều hành của Ngân hàng
Nhà nước, Tạp chí Thị trường tài chính
tiền tệ, 5, 16 – 19.
12. Nguyễn Trọng Tài (2008), Cạnh tranh
của các Ngân hàng thương mại nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, 3.
13. Nguyễn Xuân Thành (2006), Bản thảo:
Ngân hàng thương mại Việt Nam: Từ những thay đổi về luật và chính sách giai
đoạn 2006-2010 đến các sự kiện tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015, Chương trình
giảng dạy Kinh tế Fullbright TP. HCM.
14. Nguyễn Hồng Yến, Vũ Thị Kim Thanh
(2017), Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại, Tạp chí Công thương.
15. Ngô Đức Huyền Ngân (2009), Sáp nhập và mua lại Ngân hàng thương mại tại
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học kinh tế TP. HCM.
16. Phan Ánh Hè (2018), M&A – Công
cụ hữu hiệu cơ cấu lại doanh nghiệp để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam khi tham gia CPTPP, Tạp
chí Công thương.
17. Phan Quan Viet (2014), Some
Recommendations of M&A Activity in Vietnam Today, Macrothink Institute.
18. Shipra Jindal (2008), A study on Mergers & Acquisition in
Banking industry - A global phenomenon.
19. Tô Ngọc Hưng (2013), Tăng trưởng tín
dụng năm 2012 và một số khuyến nghị chính sách cho năm 2013, Tạp chí Ngân hàng, 4, 26 – 22.
20. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết
định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015".
21. Vuong Quan Hoang, Tran Tri Dung và
Nguyen Thi Chau Ha (2009), Mergers and Acquisitions in Vietnam’s Emerging
Market Economy, 1990-2009, Université Libre de Bruxelles - Solvay Brussels
School of Economics and Management Centre Emile Bernheim.
22. Vương Thị Minh Đức (2018), Hoạt động mua bán và sáp nhập các ngân hàng
thương mại tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng.
23.
Wesman,
L. D. (2005). Assessing market power: The trade-off between market
concentration and multi-participation. Journal of Competition Law &
Economics, 1(2), 339-354.
No comments:
Post a Comment