Trong kinh tế học, những giả thiết về việc so sánh liên cá thể sự
thoả mãn là trường ứng dụng quen thuộc nhất của những luận điểm phương pháp luận
trên. Dưới mắt của Robbins, những giả thiết này hợp thành ví dụ mang tính hệ
chuẩn của đánh giá giá trị không được dung nạp. Bàn luận của tập Essay (1935,
trang 138-139) dựa trên hai tiền đề khác nhau, một mặt sự nối kết từ nay đã
thành quen thuộc: chuẩn tắc, do đó là không khoa học, mặt khác, là một ý khá đặc
biệt: những đánh giá về những trạng thái tâm lí nằm về phiá cái chuẩn tắc chứ
không ở phiá cái thực chứng. Những so sánh liên cá thể, về sự thoả mãn hay về bất
kì hiệu ứng nào khác được cảm nhận một cách chủ quan, cuối cùng cũng vẫn có
cùng bản chất với những đánh giá đơn giản, giống như đánh giá của nhà kinh tế
tuyên bố chống đối việc tiêu dùng thịt lợn. Dù cho Robbins đã biết cách ảnh hưởng
đến các nhà kinh tế hay dù ông chỉ đơn giản là người phát ngôn của họ thì “luận
chứng” của ông sẽ giữ một vai trò hàng đầu trong lí thuyết kinh tế kể từ những
năm 1920-1930. Những năm này là một bước ngoặt. Trước đấy, tất cả phân tích
kinh tế về “phúc lợi” (welfare) đòi hỏi vận dụng đến những so sánh như
thế.
Trong một thời gian dài các nhà kinh tế đã mượn của học thuyết
công lợi khái niệm phúc lợi. Ta biết là Bentham đã đặt cơ sở cho học thuyết của
ông trên một dạng chủ nghĩa hoan lạc thực chứng và, trên bình diện chuẩn tắc,
trên nguyên lí hạnh phúc lớn nhất cho mọi người, the greatest
happiness principle. Những nhà chú giải vẫn còn tiếp tục tranh luận về những
ý nghĩa đa dạng của công thức này. Dù sao đi nữa, cách kiến giải nổi lên dần
trong số những nhà kinh tế của thế kỉ XIX là như sau: ta gán một con số chỉ báo
sự thoả mãn, tượng trưng cho phúc lợi cá thể cho mỗi thành viên của xã hội, và
ta ước lượng những trạng thái khác nhau của xã hội bằng cách lấy tổng giá trị của
những chỉ báo này. Ngày nay ta gặp cùng một cách mô hình hoá này trong các
sách, có khác chăng là con số chỉ báo – từ nay được gọi một cách phổ cập là một
“hàm lợi ích” – không còn tất yếu được diễn giải như một chỉ báo phúc lợi cá thể.
Trong tâm trí của các nhà kinh tế một trạng thái của xã hội tối
đa hoá tổng những chỉ báo có nghĩa là trạng thái này, theo quan điểm được chọn,
là tốt nhất, chứ không phải là bắt buộc phải hoàn thành trạng thái đó. Học thuyết
Bentham mang một âm hưởng đạo đức đậm nét hơn, đối với các nhà kinh tế không có
một âm hưởng tương tự như thế. Thường họ không có tham vọng xử lí tất cả những
nguyên nhân có thể của sự thoả mãn hay của phúc lợi, nhưng chỉ xử lí những
nguyên nhân kinh tế, nghiã là chủ yếu xử lí những số lượng tiêu dùng sản phẩm
và dịch vụ (thị trường hay công cộng), những số lượng tiết kiệm, thời gian lao
động. Bằng cách đơn giản hoá thêm nữa, thường họ gộp tất cả những yếu tố kinh tế
này vào một yếu tố duy nhất: của cải cá nhân. Trong trường hợp mà những chỉ báo
chỉ phụ thuộc vào biến “của cải” thì một kết quả đáng chú ý (từng được Bentham
thoáng thấy) thu được là: nếu các chỉ báo tuân thủ nguyên lí những thoả mãn cận
biên giảm dần và nếu những chỉ báo này đều giống nhau cho mỗi cá thể thì tổng của
chúng được tối đa hoá bởi việc phân phối bình đẳng tổng của cải. Kết luận này
đã gây ấn tượng mạnh đến độ, vào đầu thế kỉ XX, nó đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc lạm dụng kết luận này để đồng hoá học thuyết công lợi với chủ nghĩa
bình quân. Nhưng những tác giả biết điều nhất trong số các nhà kinh tế hiểu rằng
việc giới hạn phân tích của họ ở những nguyên nhân kinh tế nghiêm cấm họ xem việc
hoàn thành trạng thái bình đẳng là có tính bắt buộc: “định lí” vừa nêu, trong
trường hợp tốt nhất, chỉ có thể cung cấp một chỉ báo.
Về mặt toán học, phép tổng những chỉ báo đòi hỏi phải có hai giả
thiết về tính so sánh, trong mỗi cá thể và liên cá thể, cần phải xem là khác
nhau. 1) Chỉ báo sự thoả mãn của mỗi cá thể phải là một chỉ báo bản
số (người ta cũng gọi là “đo được”), điều này có nghĩa là chỉ báo được dùng để
so sánh không những các mức độ thoả mãn mà còn để so sánh những khác biệt thoả
mãn cá thể. Chỉ báo này không chỉ cho phép nói rằng sự thoả mãn do 1.000 ₤ mang
lại là bằng, nhỏ hơn hay lớn hơn sự thoả mãn do 10.000 ₤ mang lại; mà còn cho
phép nói được là sự thoả mãn do có được thêm 1 ₤, khi cá thể đã có 1.000 ₤ là bằng,
nhỏ hơn hay lớn hơn sự khác biệt thoả mãn tương ứng khi cũng cá thể đó đã có
10.000 ₤. Người ta đối lập những chỉ báo bằng số thuộc kiểu trên với những chỉ
báo thứ tự, những chỉ báo thứ tự này chỉ cho phép so sánh những mức độ thoả
mãn. Xếp hạng những thí sinh sau một cuộc thi tuyển là một chỉ báo thứ tự trong
lúc nhiệt độ là những chỉ báo bản số. Người theo học thuyết công lợi cần đến những
so sánh tiến hành được bằng một chỉ báo kiểu thứ hai, nhưng còn muốn chuyển chỉ
báo này từ một cá thể cô lập sang nhiều cá thể, và điều này dẫn đến một giả thiết
khác; 2) Tất cả những so sánh thoả mãn được tiến hành trên cùng một
cá thể cũng có thể được tiến hành trên những cá thể khác nhau. Nhập chung (1)
và (2) kéo theo là ta có thể nói rằng sự khác biệt thoả mãn do việc một cá thể
đã có 1.000 ₤ có thêm được 1 ₤ là bằng, nhỏ hơn hay lớn hơn sự khác biệt thoả
mãn do việc một cá thể khác đã có 10.000 ₤ có thêm được 1 ₤.
Phân tích trên nay đã trở thành cổ điển, đặc biệt là nhờ những
công trình soi sáng của Sen (1970 và 1982). Phân tích cho phép đánh giá tốt hơn
sự gián đoạn diễn ra vào khoảng 1920-1930. Trong chừng mực mà kinh tế học phúc
lợi thứ nhất, về mặt kĩ thuật, dựa trên phép tính tổng thì kinh tế học này phơi
mình hai nhóm phản bác khác nhau nhưng đều hội tụ về mục tiêu. Phê phán của
Robbins đặc biệt nhằm vào (2). Không kém phần ảnh hưởng, những phê phán mà giả
thiết (2) gợi lên có một nguồn gốc khác là lí thuyết của Pareto về những lựa chọn
kinh tế vi mô. Trong Manuel d’économie politique [Giáo trình
kinh tế chính trị học], Pareto đã tiến hành xây dựng lại lí thuyết tân cổ điển
về cầu chỉ bằng những đường bàng quan của người tiêu dùng. Phương pháp này qui
lại thay thế chỉ báo thoả mãn có tính bản số của lí thuyết trước đó bằng một chỉ
báo đơn giản có tính thứ tự. Những lí thuyết gia của thập niên 1930, như Hicks,
Allen, Samuelson sẽ tiếp tục đến nơi đến chốn dự án ban đầu. Dưới mắt những nhà
paretian, được thua cuối cùng là loại trừ một khái niệm, tính bản số, được họ
xem là không có tầm quan trọng thực nghiệm: những so sánh bản số trong nội bộ mỗi
cá thể, những so sánh các khác biệt thoả mãn, là không thể quan sát được, ngược
lại với những so sánh thứ tự mà, ít ra về mặt nguyên tắc, ta có thể gán với những
lựa chọn quan sát được. Do đó chương trình của Pareto đặt cơ sở cho một phê
phán học thuyết công lợi, một phê phán khác về mặt lí thuyết với phê phán mà
Robbins là người phát ngôn nhưng không kém phần dũng mãnh.
Cho dù hai lập luận trên là khác nhau nhưng bản chất của chủ
nghĩa thực chứng tiềm tàng trong các nhà kinh tế – được củng cố, kể từ 1920, bởi
ảnh hưởng mạnh mẽ của Câu lạc bộ Wien[1] –
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh đồng hai phê phán trên. Trước đấy Pareto
đã tổng hợp hai trào lưu, vì tác phẩm Manuel không chỉ phản
bác bản số luận mà còn phản bác cả những so sánh liên cá thể, bị đẩy sang phiá
“nguỵ khoa học” (1909, trang 68-70). Sự hợp đồng lực lượng này đã đánh gục kinh
tế học phúc lợi thứ nhất và cũng tạo nên cấu hình đặc trưng của kinh tế học
phúc lợi thứ hai.
Kinh tế học
phúc lợi thứ hai và thứ tự luận
Người ta gọi bằng thứ tự luận quan điểm không thừa nhận tính bản
số và tính so sánh được, và do đó chỉ biết có những hàm lợi ích thứ tự, những
hàm này được xác định một cách độc lập với nhau. Những hàm lợi ích thứ tự này
được xem là biểu trưng cho sở thích của các tác nhân, nghĩa là khả năng lựa chọn
của các tác nhân này – chứ không phải biểu trưng trực tiếp cho sự thoả mãn hay
phúc lợi của các tác nhân. Có lẽ sẽ có người hỏi là có thể so sánh được chăng
những trạng thái của nền kinh tế từ một thông tin giới hạn như thế? ít ra ta có
thể sắp xếp những trạng thái này theo tiêu chí kĩ thuật của tính tối ưu Pareto
(được gọi như thế vì tiêu chí này đã có mặt trong Phụ lục toán học của Manuel
d’économie politique). Trạng thái x của nền kinh tế là ưu việt hơn, theo
nghĩa của Pareto, trạng thái y nếu những hàm lợi ích của tất cả những cá thể có
những giá trị trong trạng thái x ít ra cũng lớn bằng những giá trị trong trạng
thái y, và ít nhất một hàm trong trạng thái x là có một giá trị cao hơn giá trị
của hàm này trong trong trạng thái y (ở đây ta chỉ giữ lại có khái niệm, được gọi
là mạnh, về tính ưu việt Pareto, nhưng lí thuyết đương đại đề xuất nhiều biến
thể khác). Theo định nghĩa, tiêu chí không nói gì cả về những thay đổi từ x
sang y, những thay đổi có thể kéo theo một cuộc xung đột quyền lợi – một gia
tăng của chỉ báo cho một số cá thể và một sụt giảm của chỉ số cho một số cá thể
khác. Người ta gọi bằng tối ưu Pareto một trạng thái thực hiện được x của nền
kinh tế sao cho không có trạng thái y nào là thực hiện được và ưu việt hơn trạng
thái x theo nghĩa của Pareto. Do tiêu chí so sánh không giải quyết được tình thế
những cuộc xung đột quyền lợi nên thoạt nhìn đặc tính tối ưu Pareto là tương hợp
với vô số trạng thái thoả mãn điều kiện tối ưu này. Như Pareto đã lờ mờ nhận
ra, tiêu chí và khái niệm tối ưu đi cùng với tiêu chí này có thể áp dụng được
vào việc phân tích cân bằng cạnh tranh hoàn hảo. Lí thuyết đương đại nêu bật
hai kết quả sau: mọi cân bằng chung cạnh tranh của nền kinh tế là một tối ưu
Pareto (“định lí cơ bản thứ nhất của kinh tế học phúc lợi”); có thể đạt đến mọi
tối ưu Pareto như là một cân bằng chung cạnh tranh của nền kinh tế, miễn là ấn
định đúng cách việc phân phối những nguồn lực ban đầu (“định lí cơ bản thứ hai
của kinh tế học phúc lợi”). Mệnh đề trực tiếp gợi lên luận điểm bàn tay vô hình
của Adam Smith và thường có mặt trong lập luận của các nhà kinh tế tự do. Tinh
tế hơn, mệnh đề đã tạo lí do cho chủ nghĩa xã hội thị trường của Oscar Lange,
theo đó thì có thể hoàn thành một cách cụ thể mục tiêu cuối cùng về phân phối bằng
cách vận dụng vừa những nguyên liệu phân phối cho các tác nhận lẫn sự hoạt động
tốt của thị trường.
Những hiệu ứng khuếch đại, mang tính tự do hoặc xã hội chủ
nghĩa, mà hai định lí này đã khơi lên rõ ràng kéo theo những đánh giá giá trị
và sự đột nhập của nhà kinh tế “với tư cách là con người”. Tế nhị hơn là vấn đề
phải nên trình bày những hiệu ứng này như thế nào mà không kéo theo những đánh
giá giá trị. Tất nhiên có thể trình bày một định lí của kinh tế học phúc lợi
như một kết quả thuần tuý hình thức. Đó là trường hợp của phiên bản tiên đề hoá
của “hai định lí cơ bản” của Debreu (1959). Tác giả này cung cấp một định nghĩa
rõ ràng của mỗi thuật ngữ được sử dụng (trạng thái của nền kinh tế, thực hiện
được, cân bằng chung cạnh tranh, nguồn lực ban đầu, tối ưu Pareto) nhờ một thiết
kế toán học được chỉ định rõ. Do đó coi nhẹ việc là một trong những thuật ngữ
được chọn (trong trường hợp này là tối ưu Pareto) có một âm hưởng mang tính
đánh giá: tên gọi này chỉ còn là một nhãn hiệu tuỳ tiện. Quan điểm tiên đề hoá
là đúng nhưng rõ ràng là quá hạn chế. Vấn đề thật sự là phải biết là nhà kinh tế
có lồng những đánh giá giá trị hay không khi đề xuất một kiến giải về những kí
hiệu có mặt trong phát biểu hình thức. Trong khuôn khổ giới hạn của thứ tự luận,
trong đó tiêu chí Pareto là cách duy nhất có thẩm quyền để so sánh giữa những
trạng thái với nhau thì ta có thể qui vấn đề lại như sau: nhà kinh tế có chấp
nhận hay không ẩn ý theo đó tính ưu việt theo nghĩa của Pareto thể hiện khái niệm
về sự tốt hơn? Nhà kinh tế có sẵn sàng chấp nhận nói rằng sẽ là một điều tốt nếu
nền kinh tế ở trạng thái tối ưu Pareto hay không?
Vấn đề những đánh giá giá trị được đặt ra cho toàn bộ những kết
luận mà kinh tế học phúc lợi thứ tự luận thu được, một kinh tế học tự gọi mình
là “kinh tế học phúc lợi mới” để nêu bật sự khác biệt với trường phái của
Pigou. Người ta đã sôi nổi tranh luận vấn đề này trong những năm 1930 nhân việc
Hicks, Kaldor và Scitovsky đề xuất những “tiêu chí bù trừ” nhằm tinh vi hoá sự
sắp xếp paretian những trạng thái kinh tế. Vào chi tiết, câu trả lời tuỳ thuộc
vào ngữ cảnh chính xác của phát biểu, và có thể dẫn đến một thần học nghi nghĩa
(nguyên văn là casuistique, có nghĩa là chuyên giải quyết những vấn
đề khó xử – ND) tinh tế, như trong tác phẩm của Little (1950). Nhưng người ta
cũng có thể đề xuất một câu trả lời chung. Các nhà kinh tế theo thứ tự luận chỉ
quan tâm đến tiêu chí Pareto và, tuỳ tình hình, đến những tiêu chí bù trừ vì
nhìn thấy trong đó một chỉ dẫn về phúc lợi kinh tế-xã hội (xem economic
social welfare, Bergson, 1938). Họ chỉ tính đến phúc lợi “trên quan điểm
kinh tế”: giới hạn được kinh tế học phúc lợi cũ hình dung cũng vẫn còn hiệu lực
đối với kinh tế học phúc lợi mới. Trong giới hạn này thì khái niệm ẩn sau hai
kinh tế học phúc lợi này về điều tốt trùng khớp với khái niệm phúc lợi, và điều
này đã là một đánh giá giá trị. Hơn nữa, cả hai kinh tế học này luôn giả định,
mà không bao giờ nói rõ – một điều đáng lí ra phải làm – rằng phúc lợi kinh tế
của cá thể tăng trực tiếp theo một tỉ lệ với sự thoả mãn những sở thích của cá
thể.
Ta gặp lại kết luận này ở những nhà phê phán khá khác nhau như
Little (1950) và Arrow (1951) và cuối cùng đã tự khẳng định được, mặc dù có một
vài tác giả li khai: “kinh tế học phúc lợi mới” không thoát khỏi những đánh giá
giá trị. Ngày nay quan điểm của kinh tế học phúc lợi thứ hai thống trị những
giáo trình về welfare economics (cho dù, như đã nói, trong
đó đôi lúc nổi lên lại quan điểm của kinh tế học phúc lợi thứ nhất). Những nhà
kinh tế đương đại, ví dụ như Broadway và Bruce (1984), sẵn sàng làm rõ những
đánh giá giá trị cần thiết để tiến hành đến nơi đến chốn những phân tích của họ
về phúc lợi kinh tế. Nhưng định vị như thế nào các nhà kinh tế đương đại này đối
với những cấm chỉ của Robbins và của các nhà thực chứng? Nhân danh thứ tự luận,
các tác giả đương đại lấy lại ý cho rằng những so sánh liên cá thể là những
đánh giá giá trị cần phải tránh. Nhưng chống lại Robbins và chủ nghĩa thực chứng,
họ tin là có thể xây dựng một khoa học kinh tế lấy cảm hứng từ những đánh giá
giá trị, có thể nói là được chọn tốt hơn. Tất cả các bên tranh luận cuối cùng
dường như chấp nhận mệnh đề có điều kiện sau: nếu phải có một kinh tế học chuẩn
tắc thì kinh tế học này phải xuất phát từ một vài đánh giá giá trị do chính bản
thân nhà kinh tế phát biểu, chứ không chỉ là những đánh giá giá trị quan sát được
hay được thừa nhận. Thừa nhận điều này rồi, thì một số tác giả bác bỏ là cần phải
có một chuyên ngành kinh tế học chuẩn tắc, trong lúc đối với một số tác giả
khác thì sự tồn tại của chuyên ngành này là không thể phủ nhận và chấp nhận là
không thể né tránh những đánh giá giá trị.
Như Arrow (1963, trang 37), đã từng nhận xét về những tác giả của
những năm 1930, cái giá mà kinh tế học phúc lợi phải trả có vẻ là tương đối thấp.
Khi giới hạn ở việc sử dụng tiêu chí Pareto thì kinh tế học này giả định một
đánh giá giá trị dường như được khoanh vùng và ít ràng buộc: một khi đã nhận ra
đánh giá giá trị này thì không thể né tránh được. Tính quyến rũ tầm thường của
tiêu chí Pareto là do tiêu chí này giả định sự nhất trí của những đánh giá cá
thể. Như vậy có vẻ là tiêu chí này được suy ra từ nguyên lí tổng quát cho rằng
nguồn gốc duy nhất của những đánh giá là cá thể. Vả lại Abraham Bergson (1938)
trực tiếp bảo vệ tiêu chí này dưới dạng một nguyên lí “cá nhân chủ nghĩa”. Hơn
nữa, dường như bằng một kiểu nhân đôi lặp lại không tránh được, bản thân một
tiêu chí có hiệu lực chỉ riêng cho những đánh giá nhất trí phải dấy lên sự đồng
tình nhất trí. Một số những phân tích sau này đã xác lập là không thể trả giá
nhẹ như thế để có được một tiêu chí có sức thuyết phục đến thế (trên điểm này
xem Mongin & d’Aspremont, 1999). Nhưng những phân tích này đã không lay
chuyển nổi niềm tin của các nhà kinh tế vào tiêu chí này.
Về lí thuyết
lựa chọn xã hội và kinh tế học chuẩn tắc gần đây
Việc phê phán kinh tế học phúc lợi dẫn đến, về mặt lịch sử và
logic, việc xem xét lí thuyết lựa chọn xã hội, nhưng điều này vượt quá những những
giới hạn của bài viết này. Chúng tôi chỉ nhắc lại là chuyên luận nổi tiếng của
Arrow, Social Choice and Individual Values [Lựa chọn xã hội
và những giá trị cá thể] (1951) quả thật đã rọi một tia cực sáng vào những vấn
đề so sánh liên cá thể và tính nhất trí paretian, cũng như, một cách chung hơn,
vào những vấn đề về tính chuẩn tắc trong kinh tế học. Có thể đọc được trong tác
phẩm này một biện minh thanh thản về sự cần thiết của những đánh giá giá trị
nói chung, cũng như một sự đồng ý rõ rệt đặc biệt đối với một vài đánh giá giá
trị nói riêng; cũng có thể đọc được ở đấy, nhưng phải đọc giữa các dòng, một ngợi
ca gián tiếp những đánh giá giá trị thường xuyên bị chỉ trích: những đánh giá
so sánh liên cá thể. Cách đọc như vậy không phải là một điều hiển nhiên. Những
chuyên gia đương đại về lựa chọn xã hội thường khẳng định một luận đề khác (được
trình bày trong Fleurbaey, 1996, chương 1): nhờ việc tách bạch việc hình thức
hoá với những kiến giải mà phương pháp tiên đề hoá của Arrow và những tác giả nối
bước ông cho phép, nên có thể xem xét tác động của những đánh giá giá trị mà
không cần là bản thân mình phải đồng tình với những đánh giá này. Luận đề này
qui lại là mở rộng đến những giá trị trừu tượng, được lí thuyết chọn là đối tượng
nghiên cứu, phạm vi của Wertbeziehung của Weber.
Phải tiếp tục cuộc điều tra với kinh tế học chuẩn tắc của những
năm 1980, mà những nguồn gốc khái niệm là lí thuyết công bằng của Rawls (1971),
và dự án rõ ràng, của Kolm, Sen, Dworkin, Roemer và của vài tác giả khác, nhằm
phát biểu lại chủ nghĩa bình đẳng ở một mức độ lí thuyết tinh vi thích hợp. Một
cách thô sơ, có thể xếp một số những lí thuyết về công bằng phân phối này dưới
tên gọi chi trả theo năng lực và một số khác dưới tên gọi cơ hội bình đẳng (xem
Fleurbaey, 1996; Roemer, 1996). Mục tiêu mà những lí thuyết này nhắm đến không
phải là một sự bằng nhau về mặt số học của những thu nhập. Chính bản chất của
biến phải làm ngang bằng là đối tượng của một phần bàn luận, và sự công bằng được
bàn đến gần như bao giờ cũng được hiểu là có tính tỉ lệ, chứ không phải là công
bằng tuyệt đối. Do đó nếu học thuyết bình đẳng vẫn còn dai dẳng nơi các nhà
kinh tế thì ngày nay học thuyết này đã khá xa với học thuyết bình đẳng của
Pigou. Vấn đề không còn là bảo vệ học thuyết này trên cơ sở của học thuyết công
lợi, nhưng những biến được chọn để mô tả tình hình kinh tế của các cá thể không
phải bao giờ cũng là những hàm lợi ích. Kinh tế học chuẩn tắc mới không phải là
một “kinh tế học phúc lợi mới” mới. Kinh tế học này, không giống như “kinh tế học
phúc lợi mới” đã từng làm, không quan tâm đến một chuẩn độc nhất mà nó sẽ dài
dòng xem xét đầu đuôi. Kinh tế học này xét những lí tưởng phân phối khác nhau
nhằm so sánh, nối kết, phân loại những lí tưởng này. Kinh tế học này có thể là
hoá thân muộn màng của cái “đạo đức của kinh tế chính trị học” mà John Neville
chỉ mới định nghĩa, và là bằng chứng sờ mó được cho thấy rằng Robbins đã sai lầm
khi phủ nhận khả năng logic của một khoa học chuẩn tắc. Một kết luận như vậy tự
bản thân nó gây sốc cho những tiên kiến của đa số các nhà kinh tế. Không thể
rút ra kết luận ấy mà không trước đó đào sâu những vấn đề khó nhất có tính triết
học của bài viết này: ý tưởng về một khoa học chuẩn tắc có tương hợp với việc
có những đánh giá giá trị không, hay là nên giữ lại giải pháp của Weber bằng
“quan hệ đối với những giá trị”? Phải chăng các nhà kinh tế đã thường loại bỏ
các đánh giá vì không phân biệt được rõ ràng chúng với những chuẩn bắt buộc? Những
so sánh liên cá nhân về sự thoả mãn phải chăng là không chắc chắn như các nhà
kinh tế đã nói và nên chăng tính những so sánh này vào số những đánh giá giá trị
hơn là vào số những đánh giá sự kiện?
ARROW
K., Social Choice and Individual Values, New Haven, Yale
University Press, 1951, (2e éd. révisée, 1963; trad. fr., Choix
collectifs et préférences individuelles, Paris, Calman-Lévy, 1974). –
ATKINSON A. & STIGLITZ J., Lectures on Public Economics,
London, MacGraw Hill, 1980. – BERGSON A., “A reformulation of certain aspects
of welfare economics”, Quarterly Journal of Economics, 1938, t.
32., p. 310-334.. – BOADWAY R. & BRUCE N., Welfare Economics,
Oxford, Blackwell, 1984. – DEBREU G., Theory of Value, New Haven,
Yale University Press, 1959 (trad. fr., Théorie de la valeur,
Paris, Dunod, 1984). – FLEURBAEY M., Théories économiques de la
justice, Paris, Économica, 1996. – FRIEDMAN M., Essays in
Positive Economics, Chicago, Chicago University Press, 1953. – HALÉVY
É., La formation du radicalisme philosophique, Paris, Félix
Alcan, 3 t., 1901-1904 (éd. révisée, Paris, PUF, 1995). – KEYNES J. N., The
Scope and Method of Political Economy, 1890 (4e éd., 1917, Kelley Reprints
of Economic Classics, New York, 1963) – KOLAKOWSKI L., La philosophie
positive, Paris, Denoel, 1974 (dịch từ tiếng Ba Lan). – LIPSEY R., An
Introduction to Positive Economics, London, Weidenfeld & Nicholson,
1966. – LITTLE L., A Critique of Welfare Economics, Oxford,
University Press, 1950 (2nd ed., 1957). – MILL J. S., A
System of Logic, London, Longman’s Green, 1843 (7eéd. révisée,
1868). – MONGIN P. & D’ASPREMONT C., “Utility Theory and Ethics” in BARBERA
S., HAMMOND P. & SEIDL C., Handbook of Utility Theory, t. I,
Dordrecht, Klwer, 1999. – MYRDAL G., Value in Social Theory,
London, 1958. – PARETO V., Manuel d’économie politique, 1909
(rééd. Genève, Droz, 1966). – PIGOU A., The Economics of Welfare,
London, Macmillan, 1920. – RAWLS J., A Theory of Justice,
Cambridge (Mass.), Harvard University Press, 1971 (trad. fr., Paris, Le Seuil,
1987). – ROBBINS L., An Essay on the Nature and Significance of
Economic Science, London, MacMillan, 1932 (2e éd, révisée
1935). – ROEMER J., Theories of Distributive Justice, Cambridge
(Mass.), Harvard University Press, 1996. – SEN A., Collective Choice
and Social Welfare, San Francisco, Holden Day, 1970; Choice,
Welfare and Measurement, Oxford, Blackwell, 1982. – WEBER M., Gesammelle
Aufsọtze zur Wissenschaftslehre, Tüỹbingen, Mohr & Siebeck, 1992
(trad. fr. partielle, Essais sur la théorie de la science, Paris,
Plon, 1965).
Philippe MONGIN
Giám đốc nghiên cứu CNRS
Nguyễn Đôn Phước dịch
* Phần trước: Kinh tế học: Chuẩn tắc hay thực chứng (1)
By Lavender
No comments:
Post a Comment