Positive vs
Normative
® Giải Nobel: ARROW, 1972 –
DEBREU. 1983 – FRIEDMAN, 1976 – HICKS, 1972 – MYRDAL, 1974 – SEN, 1998
Trong kinh tế học, khi người ta nói đến một quan niệm “thực chứng”
thì điều này thường có nghĩa là quan niệm này được giải phóng khỏi những đánh
giá giá trị của nhà kinh tế, và chỉ duy nhất hướng đến việc xem xét những sự kiện
và việc tìm kiếm những qui luật. Theo nghĩa này, sự tồn tại của những lí thuyết
thực chứng đã là đối tượng của những cuộc tranh luận gay gắt từ phiá trường
phái lịch sử Đức, cũng như từ chủ nghĩa Marx và từ phiá xã hội học về nhận thức;
vấn đề này cũng là mục tiêu của những phê phán đến từ những nguồn chiết trung
hơn (Myrdal, 1958). Ở đây sẽ không đề cập mấy đến cách phân biệt đầu giữa “thực
chứng” và “chuẩn tắc”. Nếu ta cẩn thận tách biệt nhà khoa học với người “thực
chứng”, vốn thật ra chỉ là ý đồ của nhà khoa học, thì dường như ta có thể, mặc
dù có những phản bác, nhanh chóng đi đến kết luận là có, trong thực tế và một
cách chính đáng, một kinh tế học “thực chứng”. Những phương pháp mà kinh tế học
này tuân thủ, lợi ích của những kết quả mà bộ môn này sản sinh ra hợp thành một
vấn đề hoàn toàn khác, một vấn đề rộng và khó.
Ngược lại khiá cạnh chuẩn tắc của sự phân biệt bao phủ những được
thua tức thì phức tạp và có một tầm quan trọng lớn về mặt khoa học luận. Ngay cả
trong nội bộ của truyền thống chính thống, các nhà kinh tế không nhất trí với
nhau để xem là phải có một nhánh của khoa học của họ chuyên về những vấn đề chuẩn
tắc hay không. Vả lại những tác giả khẳng định là có một chuyên ngành như thế
có những ý tưởng định hướng cụ thể khác nhau cho bộ môn này. Trong bài này
chúng tôi đề nghị xem xét những cuộc tranh luận trong nội bộ của kinh tế học được
gọi là tân cổ điển. Khó khăn của công việc này là ở ngữ nghĩa trôi nổi của từ
“chuẩn tắc” được những tác giả khác nhau sử dụng. Họ đã gán dụng từ này, và đây
là một điều tự nhiên, với những lí tưởng khác nhau về vấn đề thù lao và chia sẻ
– với những lí tưởng truyền thống, như chủ nghĩa bình đẳng và chủ nghĩa công lợi,
cũng như với những lí thuyết anglo-saxon gần đây về công bằng phân phối. Nhưng
họ cũng gọi bằng chuẩn tắc những lập luận về phúc lợi kinh tế và tính hiệu quả
của những thị trường được welfare economics (kinh tế học
phúc lợi) chọn làm đối tượng, những điều kiện trừu tượng do lí thuyết lựa chọn
xã hội và những lí thuyết có quan hệ chặt chẽ với lí thuyết này, và cuối cùng,
bằng việc mở rộng ngữ nghĩa chưa làm chủ được hoàn toàn, tất cả những nhận định
có vẻ kéo theo một đánh giá giá trị của nhà kinh tế. Do không thể tức khắc loại
trừ những bấp bênh về mặt ngữ nghĩa nên chúng tôi đã chọn điểm qua những trường
phái hay xu hướng có ảnh hưởng nhất. Hi vọng là việc so sánh những quan niệm cục
bộ này sẽ làm nổi lên những luận đề được sự đồng thuận và những luận đề còn
tranh cãi.
John Neville
Keynes, chủ nghĩa thực chứng và cương vị của kinh tế học chuẩn tắc
Hình như là trước nửa sau của thế kỉ XIX không có sự phân biệt
thuật ngữ giữa một hình thức thực chứng và một hình thức chuẩn tắc của kinh tế
học. Một số tác giả tưởng là đã thấy các nhà kinh tế cổ điển vận dụng về mặt
khái niệm sự phân biệt này. Đối với một số kiến giải khác, kinh tế chính trị học
cổ điển vẫn còn gần với một quan niệm về qui luật tự nhiên, điều này hoàn toàn
ngăn cấm cô lập cái thực chứng với cái chuẩn tắc; và một số tác giả khác nữa,
cùng với élie Halévy (1901-1904), thấy trong kinh tế học cổ điển sự phóng chiếu
của triết học công lợi, những tác giả này có một luận cứ lịch sử khác để phản
bác tính xác đáng của sự phân biệt trên. Dù sao đi nữa, cách trình bày rõ ràng
là của John Neville Keynes, trong một đoạn nổi tiếng của tác phẩm ông, The
Scope and Method of Political Economy[Phạm vi và phương pháp của kinh tế
chính trị học] (xuất bản lần thứ nhất 1890; xuất bản lần thứ tư 1917). Keynes
tách biệt ba hoạt động khác nhau của nhà bác học: “Ta có thể định nghĩa một
khoa học thực chứng như một số những hiểu biết có hệ thống nhằm vào điều gì là
(what is); một khoa học chuẩn tắc, hay điều tiết, như một số những hiểu
biết có hệ thống liên quan đến những tiêu chí về điều phải là (what ought
to be), và do đó xử lí cái lí tưởng đối lập với cái hiện thực; một nghệ
thuật như là một số những qui tắc nhằm đạt đến một cứu cánh nhất định” (1917,
trang 34).
Do đó người ta sẽ phân biệt một khoa học thực chứng của kinh tế
học chính trị nhằm khám phá ra những qui luật của lĩnh vực của khoa học này, một
“đạo đức học của kinh tế chính trị học” nhằm phát biểu những lí tưởng kinh tế,
và cuối cùng một “nghệ thuật của kinh tế chính trị học” nhằm cung cấp những qui
tắc hành động. Ví dụ, lí thuyết thực chứng nghiên cứu những qui luật quyết định
mức thực tế của lãi suất; lí thuyết chuẩn tắc xem xét đâu là mức công bằng của
lãi suất; cuối cùng nghệ thuật – ngày nay ta gọi là là kĩ thuật – tìm kiếm những
phương tiện, chủ yếu là những can thiệp của Nhà nước, cho phép trong thực tế đến
gần lãi suất công bằng này (như trên, trang 33).
Phân biệt bộ ba này mang tính vật chất, có nghĩa là chỉ ra những
bộ môn con của khoa học kinh tế, chứ không phải chỉ là những quan điểm khác
nhau ta có thể chọn để nhìn khoa học này. Từ đó Keynes tiến hành lập luận một
cách tuần tự mà ta thường gặp lại sau này: 1) về mặt logic có thể
xử lí những vấn đề thực chứng tách riêng khỏi những vấn đề chuẩn tắc và những vấn
đề ứng dụng; 2) về mặt phương pháp luận nên xem xét một cách có hệ
thống những vấn đề thực chứng độc lập với những vấn đề chuẩn tắc. Luận đề (1)
là kết quả của sự khác biệt, được giả định là không thể không thừa nhận, giữa
những mệnh đề về cái là (is) và những mệnh đề về cái phải là (ought).
Còn luận đề (2) có tính phát hiện chứ không có tính logic. Cần phải
đưa thêm luận đề này vào để biện minh cho việc chia cắt của khoa học thành những
chuyên ngành khác nhau. Bằng cách nêu bật những luận đề chung này trong kinh tế
học, John Neville Keynes đặc biệt đối lập với trường phái lịch sử Đức, với những
tác giả như Knies và Roscher, muốn xây dựng một khoa học xã hội ngay từ đầu có
ý đồ đạo đức (ít ra theo cách hiểu của ông về trường phái này).
Luận đề thứ nhất gần với nhưng không trùng với điều mà triết học
anglo-saxon gọi bằng luận đề Hume: luận đề này khẳng định, một cách chính xác
hơn một tí, là ta không thể suy ra một mệnh đề về cái phải là từ những mệnh đề
chủ yếu nhằm vào cái là. Còn luận đề thứ hai có thể được gọi là luận đề Bacon để
ghi nhớ một đoạn nổi tiếng của Novum Organum, được Keynes nhắc lại
(“light-bringing, not fruit-bringing experiments are to be sought for”), trong
đó những nhà chú giải đọc thấy một lời khuyến cáo rõ ràng nên vun đắp lí thuyết
thuần tuý: nên khám phá qui luật của những hiện tượng trước khi tìm cách biến đổi
chúng, và càng biến đổi tốt hơn nếu trước đấy đã gạt bỏ mọi định kiến, thậm chí
mọi ý tưởng ứng dụng. Cả hai luận đề đều là những điều sáo mòn của quan niệm thực
chứng về khoa học mà sau đây, vượt ra khỏi trường hợp đặc biệt của Keynes,
chúng tôi sẽ nhắc lại ảnh hưởng của quan niệm này trên các nhà kinh tế.
Trong phiên bản kinh tế của chủ nghĩa thực chứng thì chủ nghĩa
này xuất phát từ John Stuart Mill hơn là từ Auguste Comte, một tác giả mà, như
ta biết, không ủng hộ nguyên lí có một kinh tế chính trị học riêng biệt. Truyền
thống của Mill còn dai dẳng tới thế kỉ XX với Milton Friedman của Essays
in Positive Economics [Những tiểu luận về kinh tế học thực chứng]
(1953) hay với Richard Lipsey của Introduction to Positive Economics [Nhập
môn kinh tế học thực chứng] (1966). Những tác giả này lấy lại ý về một khoa học
kinh tế “thực chứng”, tách biệt rõ ràng với những quan điểm chuẩn tắc cũng như
với những ứng dụng. Họ dành cho những quan điểm này một vị trí quan trọng nhưng
không thật sự thừa nhận là phải có thêm một chuyên ngành kinh tế nữa, dành
riêng cho những vấn đề chuẩn tắc. Đây là một thái độ thường gặp ở các nhà thực
chứng, được Kolakowski (1976) ghi nhận, nhằm tước giảm giá trị nhận thức của diễn
ngôn về các chuẩn. Mặc dù không phải lúc nào cũng gặp song thái độ này có thể
đi kèm với niềm tin là bản chất của những tranh chấp chính trị có tính thực chứng
hơn là chuẩn tắc. Về chính sách kinh tế Friedman (1953, trang 5-7) không nói gì
khác hơn điều trên cả: những đối kháng trong lĩnh vực này xuyên qua công luận
phần lớn sẽ tan biến nếu những vấn đề có tính sự kiện về lạm phát và thất nghiệp
được giải quyết trước. Quả là không thể cường điệu hoá hơn nữa ảnh hưởng của chủ
nghĩa thực chứng trên lí thuyết kinh tế, và những quan niệm chung quanh lĩnh vực
này ngày nay còn chịu nặng nề ảnh hưởng này. Dưới mắt của nhiều nhà thực tiễn
ngày nay, những công trình chuẩn tắc thuộc về một no man’s land (vành
đai trắng) nằm bên lề của bộ môn của họ, và lợi ích của những công trình này là
không hiển nhiên.
Điều
đáng ghi nhận là, tuy vừa tự đặt mình trong truyền thống thực chứng, John
Neville Keynes đã không lập luận như thế: giữa kinh tế học thực chứng và nghệ
thuật, hay kinh tế học ứng dụng, ông đặt một nhánh đặc biệt của bộ môn, vùa
mang tính thực tiễn (do cốt lõi là những đánh giá và khuyến cáo hành động) vừa
mang tính lí thuyết (vì không quan tâm đến những sự kiện đặc thù và do đó không
được ứng dụng). Sẽ là thú vị khi đối chiếu quan điểm này với quan điểm – có ảnh
hưởng hơn – của John Stuart Mill. Tác giả của Hệ thống logic (1843)
khẳng định là “phương pháp của đạo đức học không thể khác với phương pháp của
nghệ thuật hay của thực tiễn nói chung” (V, 12, 1). Do mọi nghệ thuật xuất phát
từ một cứu cánh đặt ra lúc đầu được tác giả xem xét những phương thức để hoàn
thành cứu cánh này nên phải chỉ ra mục đích của hình thức nghệ thuật đặc biệt
này, tức đạo đức học, là gì. Đối với Mill, đó chỉ có thể là hạnh phúc phổ cập
(V, 12, 6). Thế mà hạnh phúc là cứu cánh xa vời của tất cả những nghệ thuật
khác: tất cả các nghệ thuật này cuối cùng chỉ khác với đạo đức học trong chừng
mực mà đạo đức học nhắm đến cứu cánh tột cùng, trong lúc những nghệ thuật này nắm
bắt cứu cánh tột cùng này một cách gián tiếp, thông qua những mục đích kĩ thuật
có tính phụ thuộc. Quan niệm khoa học luận của Mill (cũng được phát biểu trong
tiểu luận công bố năm 1836 về kinh tế chính trị học) đối lập trên hai mặt với
quan niệm được Keynes bảo vệ: không những quan niệm của Mill không biết đến sự
phân biệt giữa khoa học chuẩn tắc và khoa học ứng dụng mà cuối cùng còn đòi hỏi
một lí thuyết chuẩn tắc đặc biệt, lí thuyết này không gì khác hơn là một hình
thức của chủ nghĩa công lợi.
Robbins,
Weber và vấn đề những đánh giá giá trị
Trong tác phẩm Essay on the Nature and Significance of
Economic Science [Tiểu luận về bản chất và ý nghĩa của khoa học kinh
tế] (xuất bản lần thứ nhất 1932, lần thứ hai 1935), Robbins không chỉ bằng lòng
với việc lặp lại luận điệu quen thuộc: các nhà kinh tế có thể và phải tách biệt
những mối quan tâm chuẩn tắc của mình với việc tìm kiếm những qui luật. Ông còn
đi đến việc chối bỏ rằng “về mặt logic có thể” kết hợp kinh tế và đạo đức một
cách khác hơn là “đơn giản đặt kề nhau” (trang 148). “Giữa những khái quát hoá
của những nghiên cứu thực chứng và chuẩn tắc có một vực thẳm logic, được xác định
dứt khoát, mà sự khéo léo nhất không che giấu được và việc chồng lên nhau trong
không gian và thời gian không lắp nổi” (như trên). Làn ranh giữa những mệnh đề
thực chứng và những mệnh đề phát biểu những “đánh giá và nghĩa vụ” được xem gạt
ra khỏi đạo đức toàn bộ kinh tế học. Tuy không rút ra kết luận song không vì thế
mà kết luận có thể né tránh được: không thể nào tồn tại một chuyên ngành kinh tế
về những vấn đề chuẩn tắc. Xuất phát từ cùng một tiền đề bề ngoài hiền lành – một
hình thức của luận đề của Hume – Robbins đi đến một kết luận hoàn toàn khác với
kết luận của John Neville Keynes. Tuy không thuộc trường phái này nhưng trên điểm
này quan điểm của ông giống với quan điểm triệt để nhất của chủ nghĩa thực chứng
trong kinh tế học.
Robbins không có ý định khuyên các nhà kinh tế tránh mọi dấn
thân cá nhân: đó là tuỳ mỗi người thậm chí, theo ông, nên mong là các nhà kinh
tế không để cho duy chỉ các chính khách hay công luận xác định những cứu cánh
được các nhà kinh tế dùng làm điểm xuất phát cho những lập luận của họ. Trong một
trường hợp như thế, nhà kinh tế ở cương vị một con người về mặt chức năng tách
ra khỏi nhà kinh tế ở cương vị nhà kinh tế. Sau này sự phân biệt này sẽ tràn ngập
kinh tế học phúc lợi và coi như cung cấp một hình thức cụ thể cho luận điểm
tách biệt “bằng cách đặt kề nhau”. Một điểm chủ yếu khác cần làm rõ: tất nhiên
là kinh tế học (tân cổ điển) ít ra cũng tính đến một số đánh giá: đó là đánh
giá của những tác nhân mà hành vi được kinh tế học này nghiên cứu. Bởi thế, cần
phải nói thêm là chính những đánh giá của nhà kinh tế mới vượt ra ngoài lĩnh vực
của kinh tế học. Sau đây là một ví dụ thô thiển: một nhà kinh tế nghiên cứu thị
trường thịt lợn và đi đến kết luận là không tán thành việc tiêu dùng thịt lợn.
Còn những đánh giá của các tác nhân, trong chừng mực mà chúng được thừa nhận là
những đánh giá của các tác nhân thì sự có mặt của chúng không phương hại đến
tính chặt chẽ khoa học của phân tích (như trên, trang 90).
Ta cảm nhận trong cách trình bày trên âm vang của một luận đề nổi
tiếng của Max Weber. Nhân nói về lịch sử, nhưng cũng là về xã hội học và kinh tế
học, tác giả này đã khẳng định khả năng có một “khoa học trung lập về mặt đạo đức”
theo một nghĩa rất gần với nghĩa mà Robbins quan tâm đến. Weber nói là ta có thể
nghiên cứu quan điểm của một thành viên nghiệp đoàn bằng cách qui quan điểm này
về hình thức logic nhất quán nhất, tìm hiểu những điều kiện thực nghiệm của sự
hình thành quan điểm này nhưng không vì thế mà tìm cách chứng minh là phải trở
thành hay tránh trở thành một thành viên nghiệp đoàn (1917, trang 439). Trong một
bài viết khác đúng hơn là bàn về công việc của nhà sử học, Weber khẳng định là
những khoa học xã hội đã thành công trong việc gìn giữ “tính khách quan” trong
lúc tất yếu là những khoa học này quan tâm đến những “giá trị” (1904). Những khẳng
định này, rất dễ nắm bắt trên ví dụ của thành viên nghiệp đoàn, đều qui chiếu về
sự phân biệt trừu tượng giữa “đánh giá giá trị” (Werturteil) và “quan
hệ với giá trị” (Wertheziehung). Khái niệm đầu được hiểu theo nghĩa
bình thường của một đánh giá về một trạng thái của sự vật, điển hình là một
đánh giá tốt hay xấu (hay, bằng những thuật ngữ tương đối, là ưu việt hơn hay
không ưu việt bằng một trạng thái sự vật khác). Khái niệm thứ hai, một khái niệm
thuần tuý weberian, chỉ việc nhà bác học phát hiện những ý nghĩa hay những cứu
cánh tự tại nhằm đối chiếu để hiểu hành động, sự nghiệp, trình tự lịch sử được
nhà bác học nghiên cứu. Đồng thời “quan hệ với giá trị” chỉ thời điểm nhà bác học
ý thức rõ quan điểm đánh giá của bản thân sẽ định hướng toàn bộ nghiên cứu, kể
cả việc chọn lọc dữ liệu thực nghiệm, và do đó cũng tất yếu giới hạn nghiên cứu.
Bằng cách tách biệt những giá trị, cứu cánh, mục tiêu (Weber và những môn đồ của
ông không mấy cẩn thận với những phân biệt này) được gán cho người khác và những
giá trị, cứu cánh, mục tiêu mà mình chấp nhận, nhà khoa học giữ được tính khách
quan. Điều mà các nhà tân cổ điển lặp lại cùng với Robbins là một ứng dụng đặc
biệt của cái Wertheziehungvào những sở thích cá thể: nhà kinh tế
có thể đề cập những sở thích này mà không cần phải chấp nhận chúng, bằng cách
xem chúng như những đối tượng.
Sự phân biệt bình diện người quan sát với bình diện chủ thể
nghiên cứu càng trấn an hoàn toàn Weber bao nhiêu thì ông càng thất vọng bấy
nhiêu khi thấy con ngươời không bao giờ hoà giải cứu cánh hay giá trị của mình
bằng con đường duy lí. Ta cũng gặp lại chủ đề thống thiết này về “cuộc chiến những
giá trị”. Lấy lại, tuy không nói ra, ví dụ của Keynes, ông đột ngột và mạnh mẽ
viết là: “Nếu chúng ta bất đồng nhau về tính chất đạo đức của lãi suất, […] thì
không có chỗ cho một cuộc bàn luận” (như trên, trang 150). Do đó kinh tế học và
đạo đức học không kề nhau như hai khoa học đặt cạnh nhau mà như một khoa học,
kinh tế học, và một diễn ngôn chủ quan không thể chữa trị được, nói một cách
nghiêm ngặt là phi lí, tức đạo đức học. Ý tưởng cho rằng có thể tồn tại những
khoa học chuẩn tắc – hay, dù thế nào đi nữa, ý tưởng cho rằng có thể kể đạo đức
học vào trong số những khoa học chuẩn tắc, bên cạnh logic học và mĩ học, thể
theo một phân loại xưa – là xa lạ với học thuyết Weber bị giáo điều hoá.
Đến đây, chủ nghĩa tân Kant (được hiểu đúng ít hay nhiều) gặp kết
luận chủ bại mà một số nhà thực chứng đạt đến bằng một cách khác: những cuộc
tranh luận chuẩn tắc không có bất kì giá trị nhận thức nào cả. Nhưng ngược lại
với những nhà weberian trượt dài vào sự thống thiết, ta đã thấy là các nhà thực
chứng có xu hướng giảm bớt tính trầm trọng của kết luận này bằng cách viện đến
giả thiết là con người, hơn là người ta tưởng, không mấy khác nhau về những cứu
cánh của xã hội.
* Phần sau: Kinh tế học: Chuẩn tắc hay thực chứng (2)
By Lavender
No comments:
Post a Comment